Gánh nặng lao động của nhân viên y tế một bệnh viện tuyến trung ương.

Thứ Sáu, 01/12/2023, 09:45(GMT +7)

Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình và cs

                                      Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường

Nghiên cứu được tiến hành nhằm tìm hiểu gánh nặng lao động của nhân viên y tế (NVYT) tại một bệnh viện tuyến trung ương. 340 bác sĩ, y tá, hộ lý có tuổi đời trung bình 38±10 tuổi và tuổi nghề trung bình 15±12 năm đã tham gia nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa đều nằm trong giới hạn cho phép trừ tại một số vị trí đo có tiếng ồn, nồng độ CO2, axít acetic,  formon, vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TTCP). Cường độ làm việc cao, thời gian làm việc kéo dài, phải trực đêm, trách nhiệm công việc lớn…  là các yếu tố đặc thù nghề nghiệp của NVYT. Đánh giá trạng thái chức năng hệ tim mạch của bằng chỉ số toán học nhịp tim cho thấy NVYT có mức căng thẳng cao, khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn thấp (0,037±0,014), chỉ số căng thẳng cao (243). Nghiên cứu chức năng hệ thần kinh trung ương cho thấy thời gian phản xạ thính-thị vận động của NVYT kéo dài ở mức trên trung bình (mức 3/7); tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn là 37±3,5 (mức 3/7); điểm trí nhớ hình trung bình là 3,5±1. NVYT có điểm tự kiểm định stress cao.

Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp làm giảm gánh nặng lao động ở NVYT.

I ĐẶT VẤN ĐỀ

Lao động NVYT là dạng lao động đặc thù, mỗi chuyên khoa có một đặc điểm riêng biệt về điều kiện lao động, nhiều chuyên khoa phải tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ trong môi trường lao động như: hóa chất, phóng xạ, máu, bệnh phẩm… gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe NVYT và nguy cơ lây nhiễm cao. Tuy chức trách của bác sĩ, y tá, hộ lý trong bệnh viện là khác nhau nhưng họ có chung một đặc điểm là có cường độ lao động rất cao (đặc biệt ở các bệnh viện tuyến trung ương như bệnh viện Bạch Mai…), trách nhiệm công việc lớn, thời gian làm việc kéo dài… Ngoài ra, các bác sĩ, y tá còn phải trực đêm. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra ca kíp làm ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển rối loạn hệ tim mạch, hệ thần kinh và bệnh dạ dầy tá tràng [3], Salerno Silvana [4]. Chính vì vậy, nghiên cứu đánh giá gánh nặng lao động của NVYT để làm cơ sở cho các nghiên cứu can thiệp sau này nhằm làm giảm các yếu tố nghề nghiệp gây stress ở NVYT là việc làm cần thiết.

II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

– Đánh giá điều kiện lao động của NVYT tại một bệnh viện tuyến trung ương

– Đánh giá trạng thái chức năng hệ tim mạch và hệ thần kinh trung ương của NVYT bằng một số chỉ tiêu tâm sinh lý

III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

– Gồm 340 bác sĩ, y tá, hộ lý thuộc một bệnh viện tuyến trung ương

2. Phương pháp nghiên cứu

* Nghiên cứu cắt ngang mô tả

* Các phương pháp được thực hiện theo thường quy kỹ thuật Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường.

2.1. Đánh giá điều kiện lao động

– Đo các yếu tố môi trường lao động:

      + Đo vi khí hậu bằng máy: Model 37000-50 hãng Cole-Parmer của Mỹ.

      + Đo tiếng ồn bằng máy: NA-24 hãng RION của Nhật.

      + Đo bức xạ ion hoá bằng máy: Inpector của Mỹ

      + Đo hơi khí độc, các chỉ tiêu vi sinh

– Đánh giá gánh nặng lao động bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn và bấm thời gian lao động

2.2. Đánh giá trạng thá chức năng hệ tim mạch và hệ thần kinh trung ương bằng một số chỉ tiêu tâm sinh lý:

 – Đo và đánh giá biến thiên nhịp tim theo phương pháp Baevxki (qua ghi 100 khoảng RR)

Trạng thái chức năng cơ thể và các chỉ số thống kê toán học nhịp tim được chia thành 4 mức thích nghi:

+ Mức 1: Thích nghi tốt – là mức khi cơ thể có khả năng chức năng hệ tim mạch và khả năng chức năng tốt.

+ Mức 2: Căng thẳng cơ chế thích nghi – khả năng chức năng hệ tim mạch và khả năng chức năng cơ  thể bắt đầu bị căng thẳng.

+ Mức 3: Quá căng thẳng cơ chế thích nghi – khả năng chức năng cơ thể bị giảm.

+ Mức 4: Thích nghi kém – khi cơ thể bị giảm đáng kể chức năng hệ tim mạch và cạn kiệt nguồn dự trữ chức năng cơ thể.

– Đo và đánh giá thời gian phản xạ thính-thị vận động

+ Đo 10 lần, tính giá trị trung bình

+ Thời gian phản xạ thính-thị vận động được chia thành 7 mức: Rất nhanh, nhanh, trên trung bình, trung bình, dưới trung bình, chậm và rất chậm

– Đo và đánh giá tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn (CFF)

+ Đo 3 lần, tính giá trị trung bình

+ Tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn được chia thành 7 mức: rất cao, cao, trên trung bình, trung bình, dưới trung bình, thấp và rất thấp

– Đo và đánh giá thử nghiệm trí nhớ hình

+ Thử nghiệm trí nhớ hình được chia thành 7 mức: Rất tốt, tốt, trên trung bình, trung bình, dưới trung bình, kém, rất kém

– Điều tra bằng bảng câu hỏi về:

+ Mức độ stress theo điểm stress dành cho người Châu Á (Stress Assessment Score for Asians). Mức điểm stress được chia thành 3 mức: thấp, trung bình và cao

+ Điều tra một số yếu tố stress nghề nghiệp

* Xử lý số liệu bằng chương trình EPIINFO 6.04, SPSS và phương pháp thống kê y học.

IV. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

1. Điều kiện lao động của NVYT

1.1 Môi trường lao động

Bảng 1. Kết quả đo các yếu tố môi trường

Kết quả đo môi trường lao động của NVYT thuộc bệnh viện cho thấy:

– Vi khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió) tại các vị trí đo nằm trong TCCP

– Tiếng ồn vượt TCCP tại 1 số vị trí thuộc:

+ Khoa khám bệnh, khoa nhi… (nơi chờ của bệnh nhân , nơi tiếp đón bệnh nhân, nơi thanh toán viện phí, phòng lấy bệnh phẩm)

+ Khoa giải phẫu bệnh (hành lang, hai phòng lạnh (để xác))

+ Khoa chống độc (vị trí máy hấp)

– Nồng độ CO2 vượt TCCP tại các vị trí:

+ Phòng hành chính-khoa nhi (cao gấp 1,2 lần)

+ Buồng bệnh-khoa điều trị tích cực (ở ngưỡng giới hạn cho phép)

– Phòng xử lý bệnh phẩm và phòng đại thể có nồng độ axit acetic, focmol vượt quá giới hạn cho phép từ 1,09 đến 1,27 lần.

– Vi sinh:

+ Tổng số vi khuẩn hiếu khí thuộc loại không khí sạch, cầu khuẩn tan máu thuộc loại không khí sạch theo phân loại của Safir đối với không khí trong nhà về mùa đông.

+ Tổng số nấm thuộc loại không khí bẩn theo phân loại của Romanovici.

+ Ngoài trời

* Tổng số vi khuẩn hiếu khí thuộc loại bẩn theo phân loại của Ginoscova

* Tổng số nấm thuộc loại không khí bẩn theo phân loại của Romanovici.

            Nhìn chung môi trường làm việc ở các khoa đều nằm trong TTCP, một số nơi có tiếng ồn, vượt TCCP do nguồn ồn từ bệnh nhân hoặc từ các máy móc; nồng độ CO2,  hơi khí độc vượt quá TCCP là do tính chất đòi hỏi của công việc tại một số vị trí đặc biệt.

1.2. Các yếu tố đặc thù nghề nghiệp của NVYT

Kết quả đánh giá gánh nặng lao động cho thấy NVYT có nhiều yếu tố đặc thù nghề nghiệp:

– Lao động của NVYT là dạng lao động bao gồm cả gánh nặng lao động thể lực và gánh nặng lao động trí óc, giải quyết công việc có những tình huống phức tạp.

– NVYT có gánh nặng cảm xúc khá cao, trách nhiệm cao với công việc vì có thể ảnh hưởng tới  tính mạng con người.

 – Trên 80% thời gian lao động của NVYT phải làm việc một cách liên tục; cường độ làm việc cao.

– NVYT phải trực đêm, lao động ca kíp, thời gian làm việc kéo dài.

2. Đánh giá trạng thái chức năng hệ tim mạch và hệ thần kinh trung ương của NVYT bằng một số chỉ tiêu tâm sinh lý

Nghiên cứu được tiến hành trên 340 bác sĩ, y tá, hộ lý (17,4% là nam; 82,6% là nữ) với tuổi đời trung bình 38 ± 10,5 tuổi và tuổi nghề trung bình là 15 ±12 năm

Đánh giá trạng thái chức năng hệ tim mạch bằng chỉ số thống kê toán học nhịp tim cũng đã được nhiều nghiên cứu đề cập tới. Kovaleva, 1975[1] nghiên cứu chức năng hệ tim mạch ở những người lao động trí tuệ thấy có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa của các chỉ số nhịp tim (độ lệch chuẩn) và vào giai đoạn phải căng thẳng chỉ số này giảm rõ rệt.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, NVYT có mức căng thẳng hệ tim mạch cao, khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn thấp (0,037±0,014), chỉ số căng thẳng cao (243). Tuy tần số nhịp tim ở các nhóm NVYT khác nhau là như nhau nhưng hệ tim mạch của nhóm bác sĩ có biểu hiện căng thẳng nhất (độ lệch chuẩn thấp nhất và chỉ số căng thẳng cao nhất), tiếp đó là nhóm y tá và cuối cùng là nhóm hộ lý, tuy nhiên có thể do số đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chưa nhiều nên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu chức năng hệ thần kinh trung ương cho thấy tần số nhấp nháy tới hạn của mắt ở các nhóm bác sĩ, y tá và hộ lý là như nhau, đều ở mức trên trung bình (mức 3/7); thời gian phản xạ thính-thị vận động của NVYT kéo dài ở mức trên trung bình (mức 3/7) (Theo phân loại của Nga). Trong đó, thời gian phản xạ thính-thị vận động ở nhóm hộ lý kéo dài nhất, tiếp đó đến nhóm y tá và cuối cùng là nhóm bác sĩ; điểm test trí nhớ hình thì ngược lại, ở nhóm  bác sĩ có điểm tốt hơn so với nhóm y tá và hộ lý. Sự khác biệt này có lẽ do ảnh hưởng của sự khác nhau về trình độ văn hóa ở các nhóm nghề này.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không thấy có sự khác biệt đáng kể về trạng thái chức năng hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch của các NVYT ở các khoa khác nhau.

Trong số 340 NVYT tham gia nghiên cứu có 331 đối tượng đạt tiêu chuẩn để đánh giá điểm tự kiểm định stress (chiếm 97,4%).  46% NVYT có biểu hiện stress. Trong số đó, nhóm bác sĩ có mức điểm stress ở mức cao là cao nhất (16,9%), cao hơn hẳn so với nhóm y tá và hộ lý. Phân tích theo khoa thấy: 52,3% NVYT khoa khám bệnh và khoa cấp cứu có biểu hiện stress, tỷ lệ này ở NVYT khoa cận lâm sàng là 47,2%; khoa ngoại, sản là 34,3%; khoa phục hồi chức năng, lão khoa là 30,8%; khoa nội là 29%. Sự khác biệt này giữa các khoa là có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Theo nghiên cứu của David Koh và cộng sự, 1998 [2] cho rằng: các y tá làm việc tại khoa hồi sức cấp cứu có mức độ stress cao nhất, các y tá khoa ngoại, phòng khám, khoa bệnh nhân ngoại trú có điểm đánh giá và tự cảm nhận stress ở các mức độ thấp hơn.

IV. KẾT LUẬN

1. Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa đều nằm trong giới hạn cho phép trừ tại 1 số vị trí đo có tiếng ồn, nồng độ CO2, axít acetic, focmon, vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TTCP). Cường độ làm việc cao, thời gian làm việc kéo dài, phải trực đêm, trách nhiệm công việc lớn… là các yếu tố đặc thù nghề nghiệp của NVYT.

2. Đánh giá trạng thái chức năng hệ tim mạch của bằng chỉ số toán học nhịp tim cho thấy NVYT có mức căng thẳng cao, khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn thấp (0,037±0,014), chỉ số căng thẳng cao (243). Nghiên cứu chức năng hệ thần kinh trung ương cho thấy thời gian phản xạ thính-thị vận động của NVYT kéo dài ở mức trên trung bình (mức 3/7); tần số nhấp nháy tới hạn của mắt là 37±3,5 (mức 3/7); điểm trí nhớ hình trung bình là 3,5±1. NVYT có điểm tự kiểm định stress cao.

V. KHUYẾN NGHỊ

Cải thiện tốt hơn môi trường lao động

Giảm sự quá tải trong công việc (tăng cường nhân lực, tổ chức lao động hợp lý hơn…) cho NVYT.

– Sử dụng hợp lý các biện pháp phòng hộ cá nhân trong quá trình làm việc

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trần Thanh Hà, 1998

Nghiên cứu dự báo khả năng lao động của bộ đội tiêu binh. Luận án thạc sĩ y khoa, trường đại học Y hà nội

2. David Koh et al, 1998

Salivary IgA as abiomarker of stress  a study in nursing staff. Abstract-The 3nd National Scientific Conference on Occupational Health. Printed in Viet nam, p.140

3. Knauth Peter, 1998

Hours of work. Encyclopaedia of Occupational health and Safety-4th edition (1998) Published by the International Labour Office (ILO)

4. Salerno Silvana et al, 1993

Application of the method of organizational congruences to assess to work stress among hospital nurss in two different countries. 24th congress of the international commission on occupational health. Abstracts. Nice, p. 379


(Nguồn tin: Nilp.vn)