Tiếp xúc nghề nghiệp với sương dầu khoáng trong luyện kim: Xây dựng phương pháp lấy mẫu và phân tích mới. So sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm

Thứ Sáu, 01/12/2023, 10:23(GMT +7)

Việc tiếp xúc với hơi dầu khoáng ở mức 1 mg.m-3 trong một năm gây ảnh hưởng tới năng lực thông khí cưỡng bức (FVC), tương đương với việc hút một bao thuốc lá mỗi ngày trong 1 năm.

Tóm tắt.

Chất lỏng trong luyện kim (MWF) được sử dụng chủ yếu cho ngành tiện, một ngành sản xuất lớn tại Thụy Sỹ, đặc biệt trong cơ khí chính xác và chế tạo đồng hồ. Pháp đề xuất giới hạn tiếp xúc cho phép (PEL) đối với sương dầulà 1 mg.m-3. Đại hội những chuyên gia vệ sinh công nghiệp Mỹ (ACGIH) đặt giới hạn tiếp xúc cho phép ở mức 5 mg.m-3 nhưng đã đề xuất yêu cầu giảm mức tiêu chuẩn xuống còn 0,2 mg.m-3; tuy vậy đề xuất này bị treo từ năm 2001; Giá trị này không phải là ngưỡng giới hạn tiếp xúc được công nhận. Từ năm 2003, Thuỵ Sĩ khuyến nghị PEL mới (MAK) là: 0,2 mg.m-3 đối với sương dầu (dầu với nhiệt độ sôi >350oC không có chất phụ gia) hoặc 20 mg.m-3 cho sương dầu + hơi dầu đối với dầu trung bình hoặc nhẹ. Để đánh giá mức độ thất thoát do bay hơi của mẫu dầu, Viện an toàn và sức khỏe nghề nghiệp của cơ quan bảo hiểm tai nạn xã hội Đức (Berufsgenossenschaftliches Institut für Arbeitssicherheit của Đức – BGIA) đề xuất sử dụng 1 ống cartridge XAD-2 đặt sau fin lọc. Phương pháp này ban đầu tỏ vẻ có hiệu quả khi trong môi trường làm việc không có hơi dung môi tẩy rửa nhẹ như xăng trắng ( White Spirit). Tuy nhiên, trong thực tế, môi trường ở những nơi có máy móc, thiết bị luôn bị ô nhiễm bởi dung môi xăng trắng, do vậy phương pháp của BGIA trở nên không phù hợp trong việc xác định nồng độ hơi dầu MWF (vì cho kết quả cao). Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất một phương pháp mới nhằm đo lường cả hơi dầu và sương dầu. Chúng tôi đã thảo luận và so sánh kết quả phân tích giữa 5 phòng thí nghiệm khi cùng lấy mẫu ở trong phòng thí nghiệm mà hơi dầu được tạo ra trong các điều kiện được kiểm soát.

1. Giới thiệu

Chất lỏng trong luyện kim (MWF) được sử dụng phổ biến trong ngành công nghiệp luyện kim, đặc biệt trong ngành tiện, một ngành công nghiệp phổ biến trong việc chế tạo đồng hồ ở Thuỵ Sĩ. Hàng loạt các bệnh về hô hấp bắt nguồn từ việc sản xuất và phát tán hơi dầu trong môi trường làm việc. Mặc dù sử dụng hệ thống tủ hốt bao kín máy,  lắp đặt hệ thống thông gió kèm thiết bị lọc nhằm giảm lượng hơi dầu tiếp xúc, số lượng công nhân luyện kim mắc bệnh ho mãn tính, rát đường thở, viêm phế quản và hen suyễn do tiếp xúc với hơi dầu  ngày càng tăng. Một số nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện trong những năm 80 cho thấy tần suất đối tượng mắc các bệnh về đường hô hấp do tiếp xúc với MWF là rất cao. Năm 1995, Ameille và các tác giả khác nghiên cứu về các triệu chứng bệnh hô hấp mãn tính của 308 công nhân tại một nhà máy sản xuất xe ô tô ở Pháp. Các đối tượng tiếp xúc trực tiếp với MWF có khả năng mắc bệnh mãn tính như ho, họng có đờm và khó thở. Những quan sát này được thực hiện trong môi trường tiếp xúc có nồng độ 2,6 mg.m-3, chỉ bằng một nửa so với mức đề xuất là 5 mg.m-3.

Hiện tại chưa có số liệu nào về tổng lượng dầu sử dụng, số lượng công ty quan tâm tới vấn đề sức khoẻ của NLĐ tiếp xúc với hơi dầu và về số lượng công nhân tiếp xúc với dầu tại Thuỵ Sĩ. Tuy nhiên, áp dụng kết quả một nghiên cứu của Pháp thực hiện vào năm 2001 vào tình hình thực tế tại Thuỵ Sĩ (lấy tỉ lệ 1:10 giữa Thuỵ Sĩ và Pháp), chúng tôi ước tính có khoảng 20.000 công nhân Thuỵ Sĩ, trên tổng số 120.000 công nhân đã đăng ký, đang tiếp xúc với hơi dầu ở mức khoảng 0,36 tấn dầu/người/năm. Các bài kiểm tra chức năng phổi được sử dụng tại nơi làm việc đủ nhạy bén để nghiên cứu mối quan hệ phản ứng – liều. Thực tế, năm 2001, Eisen và các tác giả khác đã chỉ ra rằng, trong một nhóm gồm 1.811 nhân viên nhà máy ô tô tại Michigan, việc tiếp xúc với hơi dầu khoáng ở mức 1 mg.m-3 trong một năm gây ảnh hưởng tới năng lực thông khí cưỡng bức (FVC), tương đương với việc hút một bao thuốc lá mỗi ngày trong 1 năm.

Hiện tại, các giới hạn tiếp xúc nghề nghiệp theo tiêu chuẩn quốc gia liên quan tới hơi dầu chưa thống nhất, do vậy việc tiêu chuẩn hoá ở tầm quốc tế cần được khuyến khích. Tiêu chuẩn của Đức (BGIA) là 10 mg.m-3 sương dầu và hơi dầu. Pháp (INRS) đề xuất mức giới hạn là 1 mg.m-3 son khí, trong khi Mỹ (ACGIH) giữ ở mức 5 mg.m3. ACGIH cũng đề xuất mức giới hạn mới (TLV) cho hơi dầu là 0,2 mg.m-3, xếp vào nhóm A2 (nhân tố khả nghi gây ung thư ở người) đối với dầu khoáng tinh chế chất lượng thấp và xếp vào nhóm A4 (không thể phân loại vào nhóm tác nhân gây ung thư ở người) đối với dầu khoáng tinh chế chất lượng cao. Tuy nhiên, đã có một đề xuất mới nhằm hạ tiêu chuẩn của ACGIH xuống mức 0,2 mg.m-3 sương dầu đối với dầu nặng có nhiệt độ sôi (BP) >350oC hoặc 20 mg.m-3 sương dầu và hơi dầu đối với dầu trung bình hoặc nhẹ. Viện Nghiên cứu Quốc gia về An toàn và Sức khoẻ Nghề nghiệp Mỹ (NIOSH) cùng với Cục An toàn và Sức khoẻ Nghề nghiệp Mỹ (OSHA) đề xuất giới hạn tiếp xúc trung bình theo thời gian (TWA) với hơi dầu trong 8 tiếng là 0,5 mg.m-3.

Nhiều phương pháp đã được sử dụng để xác định khối lượng của hơi dầu thu được qua bộ lọc: phân tích trọng lượng, quang phổ sóng cực tím hoặc quang phổ hồng ngoại. Tuy nhiên, ở tất cả các phương pháp trên, việc bay hơi của các giọt hơi dầu thu được trên màng lọc vẫn có thể xảy ra vì chúng vẫn tiếp xúc với không khí trong suốt quá trình lấy mẫu.

Các phương pháp truyền thống khuyến nghị nên sử dụng một bộ lọc để lượng hóa hơi dầu nhưng cách này chỉ đúng đối với trường hợp sử dụng MWF thông thường do chúng tạo ra lượng hơi dầu ổn định. Dầu có độ nhớt thấp hơn 18 centiStokes (cSt) ở nhiệt độ 40oC, điều kiện môi trường thường được sử dụng tại Thuỵ Sĩ, thường bị mất hơn 70% trọng lượng qua bộ lọc trong khoảng thời gian tối đa 6 giờ ở điều kiện lấy mẫu chuẩn 2 lít/phút. Lượng thất thoát của MWF đa phần là hydrocacbon béo (C­12-C24) nhưng các chất phụ gia như alkyl benzen, este, phenols và tecpen cũng bị mất. Do vậy, việc đánh giá thấp mức độ tiếp xúc và phương pháp lấy mẫu không phù hợp có thể trở nên khá phổ biến.

Đề tránh sự thất thoát do bay hơi, tiêu chuẩn của BGIA đã yêu cầu đặt một ống cartridge XAD-2 sau fin lọc. Phương pháp này ban đầu có vẻ có hiệu quả môi trường làm việc không có hơi dung môi tẩy rửa nhẹ  như xăng trắng (C5-C11), chất có PEL cao (525mg.m-3). Trên thực tế, tại môi trường làm việc ở những nơi có máy móc, thiết bị luôn bị ô nhiễm bởi dung môi xăng trắng; do vậy phương pháp của BGIA thường ước tính quá cao nồng độ hơi dầu. Gần đây, trong một nghiên cứu khác, Simpson đã đề xuất một phương pháp tương tự sử dụng cả fin lọc và ống cartridge XAD-2 đề đo tổng lượng sương và hơi dầu. Bất kỳ mẫu sương dầu nào sau khi bốc hơi, hơi dầu đều được giữ lại trong ống than củi hấp phụ và ống cartridge XAD-2. Sử dụng máy sắc ký khí với đầu dò ion hoá ngọn lửa (FID) để xác định tỉ lệ hơi dầu trong hỗn hợp.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất một phương án mới có thể khắc phục được nhược điểm của cả hai phương pháp trên.

2. Công cụ và phương pháp

2.1 Cách tạo ra sương dầu

Sương dầu được tạo ra từ chất lỏng trong luyện kim gồm các loại dầu khoáng nhẹ, trung bình và nặng (Somentor 29, Blaser VP1006 hoặc Blasomil 22 và Blaser 220) trong một máy xông khí bằng thuỷ tinh sử dụng khí nén; ban đầu – trong một ống thí nghiệm hình trụ nhỏ (dài 130 cm, đường kính 50 cm) và sau là trong một khoang thí nghiệm thể tích 10 m3. Vận tốc dòng khí nén được kiểm soát tự động trong khoảng từ 0 tới 10 lít/phút bằng một van khí (mẫu MFC công nghệ cao F200). Kích thước của sương dầu được xác định bằng phương pháp quang học và phương pháp phân tích trọng lực: sử dụng một máy phân tích hạt quang học (mẫu Climet 208A, USA) được trang bị hệ thống pha loãng (Climet CI-294-1, USA) có thể đếm được các hạt có đường kính <0,3 đến 10 micron mét và phân loại chúng vào 7 nhóm khác nhau; một máy lấy mẫu 8 tầng (máy lấy mẫu theo kích cỡ hạt, kiểu 2000, Andersen Inc., USA) bộ lọc sợi thuỷ tinh và một lưới dự phòng (lưới sợi thuỷ tinh 934AH, 81 mm, Whatman) có thể thu được sương dầu có đường kính khí động từ <0,4 đến >11 micron mét. Phân bố hạt của sương dầu đượcc tính toán bằng phần mềm thiết kế liền với máy tính theo đường cong lọt của hạt cho từng tầng của thiết bị.

Để kiểm tra hiệu quả của phương pháp lấy mẫu sương dầu, chúng tôi đã tạo nhiễu vào quá trình tạo sương dầu trong buồng kiểm tra: đưa dung môi tẩy rửa công nghiệp xăng  trắng với nồng độ 60 – 100 mg.m-3, bằng 1/5 PEL (MAK của Thuỵ Sĩ: 100 ppm hoặc 525 mg.m-3). Sự gây nhiễu này không gây ảnh hưởng tới phương pháp lấy mẫu sương dầu bằng fin lọc tiêu chuẩn, nhưng khi áp dụng phương pháp tương tự BGIA- sử dụng ống hấp phụ cartridge và phương pháp IR sẽ cho kết quả không chính xác (giá trị cao hơn thực tế). Để kiểm tra giá trị thực, ở vòng 1, chúng tôi tạo ra sương thuần túy dầu nguyên chất; ở vòng hai, tạo sương dầu có đưa  xăng trắng vào để tạo nhiễu với nồng độ hệt như hơi dầu. Trong vòng thứ 5, chúng tôi đưa vào khoang thí nghiệm thêm các chất gây nhiễu khác, ví dụ như bụi trơ (hạt thuỷ tinh đa phân tán hình cầu, Spheriglass, 0 – 15 μm, ở nồng độ 5 mg.m-3).

2.2 Đề xuất phương pháp

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là tìm kiếm phương pháp lấy mẫu và phân tích cả sương dầu và hơi dầu, để vừa tuân thủ theo quy định mới của Thuỵ Sĩ (2003) vừa thể hiện sự chắc chắn của các phương pháp đề xuất trong việc so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm. Phòng thí nghiệm của chúng tôi (IST) đã xây dựng 2 phương pháp mới và đề nghị các đối tác tham gia cùng sử dụng để dễ so sánh kết quả.

2.2.1 Phương pháp phân tích trọng lực

Dựa trên phương pháp INRS của Pháp để phân tích phần sương dầu và phương pháp BGIA để phân tích phần hơi dầu, phương pháp đề xuất mới nhằm xác định phần hơi dầu với việc bay hơi được kiểm soát bằng nitrogen và kiểm soát nhiễu hơi dung môi. Sở dĩ chúng tôi phải xây dựng một kỹ thuật phân tích mới vì phương pháp hồng ngoại (IR) sử dụng ở Đức – phương pháp BGIA – không thể phân biệt được hơi từ dung môi xăng  trắng hay từ các dung môi tẩy rửa khác. Thực tế này dẫn tới việc số liệu phân tích cao so với thực tế.

Phương pháp mới khác biệt chủ yếu là: đầu tiên chiết xuất bộ lọc và ống XAD-2 bằng CH2Cl2, sau đó xác định phần dư còn lại bằng phương pháp trọng lượng sau khi làm bay hơi dung môi chiết xuất theo phương pháp INRS của Pháp. Đặc biệt lưu ý quá trình bay hơi sao cho có thể loại bỏ CH2Cl2 và các chất dung môi khác, như dung môi tẩy rửa hoặc xăng trắng trong ống XAD-2 mà không làm hơi dầu bị mất. Sau khi chiết xuất hơi dầu khỏi ống XAD-2 bằng dung môi hữu cơ, ví dụ như CH2Cl2 hoặc tetrachlorethylene (PER), sử dụng GC-FID hoặc phương pháp phân tích trọng lượng đối với chất bay hơi còn lại để xác định phần hơi dầu. Từ hình 1 đến hình 3 thể hiện cách xác định lượng CH2Cl2, xăng  trắng và hơi dầu bằng phương pháp trọng lượng, làm bay hơi từ từ dung dịch chiết xuất, đo lặp khối lượng của chất dư trong lọ thuỷ tinh và tính toán lý thuyết phần bay hơi. Lượng bay hơi thực tế được tính toán bằng phương pháp hồi quy và chắn tại thời điểm t=0 (thời gian bắt đầu, 0 phút). Phương pháp này hiệu quả hơn phương pháp cổ điển cân khối lượng liên tục, do vậy tránh được thất thoát hơi dầu. Với phương pháp này, chúng tôi khẳng định có thể xác định được nồng độ hơi dầu ngay cả khi có chất gây nhiễu ở mức độ cao. Chúng tôi đề xuất phương pháp này để hợp thức hoá việc so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm với nhau và để có thể áp dụng cho bất cứ phòng thí nghiệm nào mà không cần dùng đến các thiết bị đặc biệt hay dụng cụ đắt tiền.

2.2.2 Phương pháp GC-FID hoặc GC-MS

Dựa theo ISO16703 hướng dẫn xác định lượng hydrocarbon trong đất, tổng tín hiệu của đầu dò FID trong khoảng thu giữ xăng trắng ứng với phần dầu bay hơi hay tín hiệu theo dõi đơn ion (SIM) của ion có tỉ lệ khối lượng/điện tích, m/z 57 của phần hơi dầu thể hiện số lượng phân tử hydrocac bon đã được tích hợp và tính toán bằng máy tính. Việc lượng hóa được thực hiện bằng cách so sánh tổng tín hiệu của mẫu với tiêu chuẩn, trong trường hợp này là dung dịch dầu pha loãng trong CH2Cl2 hoặc PER. Hình 4 thể hiện cách xác định phần dầu bay hơi bằng phương pháp GC-MS với việc định lượng bằng cách cộng toàn bộ vùng peak của khí béo tương ứng với phần hơi dầu (trong trường hợp này là C12 tới C24).  Hợp chất gây nhiễu – phần hơi xăng  trắng (C5 tới C11) được tách riêng và loại trừ. Phương pháp này cũng đã được công nhận và kiểm chứng trong việc so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm nhưng nó yêu cầu phải dùng các thiết bị đắt tiền như GC-MS hoặc GC-FID. 

2.3 Đối tượng tham gia

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là để chứng minh sự không hiệu quả của các phương pháp hiện nay trong việc xác định lượng sương dầu và đề xuất các phòng thí nghiệm chính tắc của Thuỵ Sĩ áp dụng phương pháp mới. Thực tế là chưa có sự so sánh các kết quả đo chính thức giữa các phòng thí nghiệm của Thụy Sỹ theo phương pháp mới đề xuất mà mới chỉ tổ chức một nhóm các phòng thí nghiệm để kiểm chứng tính khả thi của phương pháp. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi đã tổ chức 5 phòng thí nghiệm (PTN) cùng thực hiện các thí nghiệm trong một phòng thí nghiệm mà sương dầu được tạo ra với các điều kiện có kiểm soát.

Trước tiên, mỗi PTN tham gia sử dụng phương pháp riêng của họ theo cách truyền thống và chính tắc mà chưa có sự thay đổi gì. Bằng việc gây nhiễu trong quá trình tạo hơi dầu, chúng tôi chỉ ra được những thiếu sót trong phương pháp chính thống khi bị  nhiễu và lượng dầu bị thất thoát do bay hơi trong quá trình lấy mẫu. Sau một vài đợt tạo hơi dầu, mỗi bên tham gia sẽ điều chỉnh thí nghiệm nếu cần thiết để tránh được thất thoát hơi dầu do bay hơi trong quá trình lấy mẫu hoặc gặp phải rắc rối với dung môi xăng  trắng. Phòng thí nghiệm IST đề xuất 2 phương pháp: phân tích trọng trường có sự kiểm soát tốc độ bay hơi (phương pháp C) và GC-MS (phương pháp D).

Các phương pháp thống nhất để lấy mẫu sương dầu và hơi dầu như sau: bộ lọc có giấy lọc bằng sợi thuỷ tinh + ống hấp phụ XAD-2. Các thiết bị phân tích định lượng để xác định hơi dầu và sương dầu là: phân tích trọng lượng, phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR), sắc ký khí ion hoá ngọn lửa (GC-FID) và sắc ký khí khối phổ (GC-MS). Thời gian lấy mẫu (từ 2 đến 8 tiếng) tùy thuộc nồng độ hơi dầu, năng suất của máy lấy mẫu sương dầuvà giới hạn định lượng (LOQ) của fin lọc (ít nhất là 0,2 mg)  nhằm đảm bảo độ chính xác của phương pháp trọng lượng. Các phương pháp khác nhau do các PTN tham gia áp dụng được miêu tả và tổng hợp trong Bảng 1.

2.3.1 Phương pháp BGIA

Phương pháp BGIA tiêu chuẩn và máy lấy mẫu GSP (với một vài thay đổi nhỏ) được sử dụng cho phòng thí nghiệm số 5 trong quá trình thí nghiệm: tốc độ lấy mẫu 1 lít/phút thay vì 3,5 lít/phút với lỗ hút được điều chỉnh thành 2 mm. Điều chỉnh này nhằm giảm tối đa việc thất thoát do bay hơi của các giọt dầu ở trên giấy lọc, nhưng trên thực tế thì không có hiệu ứng nào rõ rệt, và cuối cùng phòng thí nghiệm số 5 quay lại sử dụng phương pháp BGIA nguyên bản với máy lấy mẫu GSP. Sau khi lấy mẫu, bộ lọc và ống hấp phụ (chất hấp phụ XAD-2 nặng 3g) được tách rửa bởi 10 ml PER và tổng khối lượng hơi dầu được xác định bằng cách đo phổ hồng ngoại bị hấp thụ ở dung môi giải hấp 3000-2800 cm-1 với quang trình 10 mm. So với dung môi tiêu chuẩn của dầu trong PER, hoang thạch anh được chuẩn bị cẩn thận. Hiệu chỉnh được thực hiện bằng cách dùng dung môi PER chiết xuất giấy lọc sợi thuỷ tinh chưa lấy mẫu (blank) .

2.3.2 Phương pháp BGIA đã chỉnh sửa

Xác định phần dầu bay hơi cũng có thể được thực hiện bằng cách cho bay hơi từ từ phần dung dịch chiết xuất PER, loại bỏ dung môi gây nhiễu và xác định thành phần dầu bay hơi bằng phương pháp FTIR. Trước khi phân tích mẫu, quá trình bay hơi được tối ưu hoá bằng hợp chất MWF hòa với dung môi gây nhiễu trong PER. Với phương pháp này, toàn bộ phần chiết xuất từ bộ lọc, chất hấp phụ và toàn bộ dung dịch hiệu chỉnh đều được xử lý giống nhau và đồng thời bởi một thiết bị quay chân không đa năng  (multi-rotavapor). Việc định lượng được thực hiện bằng phương pháp FTIR.

2.3.3 Phương pháp B

Phương pháp NIOSH tiêu chuẩn 5026 được chúng tôi áp dụng, sử dụng bộ lọc PVC với một vài điều chỉnh để thu phần dầu dễ bay hơi bằng cách thêm 1 ống có chất hấp phụ (1g XAD-2) để hỗ trợ lấy mẫu hơi dầu. Đầu của thiết bị IOM cũng được kiểm tra ở tốc độ 2 lít/phút qua vài vòng tạo hơi dầu. Việc xác định trọng lượng của sương dầu trên bộ giấy lọc được thực hiện sau khi đã giữ mẫu trong suốt 24 giờ trong một hộp kiểm soát độ ẩm (52% ± 5%) trước khi cân bằng cân vi lượng (mẫu M5P, Sartorius). Xác định phần hơi dầu trong ống XAD-2 bằng quy trình tương tự như miêu tả ở phương pháp C.

2.3.4 Phương pháp C

Dựa trên phương pháp INRS của Pháp xác định phần hạt và phương pháp BGIA xác định phần hơi, phương pháp mới có thể xử lý được sự gây nhiễu của dung môi bay hơi. Thiết bị lấy mẫu gồm một cassett chứa bộ lọc có giấy lọc bằng sợi thuỷ tinh đường kính 37 mm, (GF/B, Whatman), lắp cùng với ống chiết pha rắn (SPE) (ống Polypropylene 6 ml và các ống thuỷ tinh, tham khảo 57242 và 57181, Supelco) chứa 1g XAD-2 (tham khảo 1-0357, Supelco). Tốc độ hút 2 lít/phút đối với tất cả các đợt kiểm tra. Đối với phần hạt, dung phương pháp trọng trường với bộ lọc được xử lý trước và sau khi lấy mẫu giống như phương pháp B. Trên thực tế, việc tách sương dầu ra khỏi bộ lọc với 20ml CH2Cl2­ sau khi diễn ra bay hơi từ từ trong dòng khí nito (tốc độ dòng N2 200 ml/phút ở nhiệt độ 400C) và phương pháp trọng trường của phần bị chiết xuất cũng được áp dụng đối với loại hạt bụi không phải dầu. Phần dễ bay hơi ở ống XAD-2 được tách bằng 20 ml CH2Cl2 chưng cất. Sau khi làm bay hơi một lượng nhỏ (5 ml), dưới tác động của dòng nito, dung dịch cuối cùng được chuyển vào một ống thủy tinh nhỏ và chúng tôi có thể xác định được phần dầu dễ bay hơi bằng việc bay hơi dung dịch tách, liên tục cân khối lượng chất còn lại ở trong ống thủy tinh và tính toán trên lý thuyết lượng dầu dễ bay hơi (xem phần kết quả).

2.3.5 Phương pháp D

Phần dầu dễ bay hơi ở ống XAD-2 được chiết xuất bởi 20 ml CH2Cl2 hơi chưng cất. Sau khi làm bay hơi một lượng nhỏ (5 ml), dưới tác động của dòng nitro nhẹ, một lượng chất chiết xuất được bơm vào máy sắc ký khối phổ (GC-MS) để xác định chất gây nhiễu (xăng  trắng, C5-C11) và xác định phần dầu dễ bay hơi (C12-C24). Phương pháp này dựa theo tiêu chuẩn ISO 16703 áp dụng cho việc xác định thành phần hydrocarbon trong đất. Tóm tắt lại, 1-2 μl dung dịch tách được đưa vào trong thiết bị GC-FID hoặc GC-MS và phần dầu bị bay hơi (C12-C24) được lượng tính bằng cách sử dụng tổng tín hiệu từ thiết bị FID hoặc tín hiệu theo dõi ion đơn (SIM) của ion có tỉ lệ khối lượng/điện tích – m/z 57 từ thiết bị GC-MS, trong khoảng thu giữ hơi dầu được tích hợp và tính toán. Phần thể hiện cho dung môi xăng trắng (C5-C11) sẽ bỏ qua. Đường cong hiệu chỉnh được tính theo dung dịch chuẩn của dầu tại các nồng độ khác nhau. 

Có vẻ như các đối tác tham gia thí nghiệm đã áp dụng rất nhiều phương pháp, nhưng trên thực tế, phương pháp cơ bản vẫn dựa trên cả 2 đề xuất của IST: phương pháp phân tích trọng trường có sự kiểm soát bay hơi trong môi trường nito và phương pháp GC.

2.4 Kiểm soát chất lượng

Quy trình so sánh dựa vào tiêu chuẩn của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO 5725), nhằm cung cấp thông tin về tính lặp (biến số trong phạm vi phòng thí nghiệm) và tính nhân rộng các số liệu đo (biến số trong phạm vi phòng thí nghiệm và giữa các phòng thí nghiệm với nhau). Để đánh giá mức độ chấp nhận của phương pháp này, chúng tôi đã so sánh kết quả với các yêu cầu của Tiêu chuẩn Châu Âu EN 482 về Môi trường làm việc – Các yêu cầu cơ bản đối với quy trình thực hiện các đo lường hóa chất.  Tiêu chuẩn này yêu cầu tính bất định tương đối (ROU) hoặc sai số phải cộng thêm 2 lần độ lệch chuẩn, nhằm so sánh với các giá trị giới hạn thấp hơn 30% khi được sử dụng trong khoảng từ 0,5 tới 2 lần giá trị giới hạn, bao gồm cả sai số khi lấy mẫu và khi phân tích. Mức tham chiếu được tính toán từ các dữ liệu riêng của từng phòng thí nghiệm.

3. Kết quả và thảo luận

3.1 Tạo sương dầu MWF

Sương dầu được tạo ra từ các loại dầu khoáng nhẹ, trung bình và nặng dùng trong luyện kim (Somentor 29, Blaser VP1006 hoặc Blasomil 22 và Blaser 220) bằng máy xông khí thuỷ tinh sử dụng khí nén của khoang thí nghiệm dung tích 10 m3.. Sương dầu tạo ra có thể điều chỉnh được trong khoảng từ 0,1 tới >20 mg/m3. Sau thời gian ổn định, khoảng 15 phút, nồng độ sương dầu của máy cắt dầu (Blaser VP1006) có thể duy trì với độ lệch chuẩn < 5% trong vòng 6 tiếng. Tính đồng nhất không gian (spatial uniformity) của sương dầu trong khoang thí nghiệm nằm trong khoảng 2-3%, theo phép kiểm tại 5 điểm đo. Điều này cho thấy rõ tính ổn định và đồng nhất của nồng độ sương dầu, phù hợp cho việc đo đạc và so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm. Việc phân bố các hạt sương dầu được tính toán cho thấy đường kính khí động học trung bình dao động từ 2,74 ± 1,8 micromét. Sự phân bố kích thước các hạt sương dầu này cũng tương ứng với sự phân bố các hạt sương dầu quan sát được ở môi trường thực tế.

3.2 Thất thoát hơi dầu trong quá trình lấy mẫu

Bảng II thể hiện sự thất thoát của phần hơi dầu nằm trên giấy lọc dựa trên nhiệt độ sôi (BP) hoặc nhiệt độ cháy tương ứng với các loại dầu nhẹ, trung bình và nặng trong quá trình lấy mẫu; lưu lượng hút là 2 lít/phút và tổng thể tích khí hút qua fin lọc là 480 lít. Lượng hơi dầu bay hơi được thu lại trong ống XAD-2 gắn sau bộ lọc.  Đối với dầu nhẹ  (nhiệt độ cháy 74­oC), tất cả các sương dầu đều bay hơi và đi vào trong ống XAD-2; đối với dầu trung bình, tỉ lệ hơi-lỏng là 50%; và đối với dầu nặng (nhiệt độ cháy: >2500C), chỉ 25% lượng hơi dầu bị bốc hơi trong quá trình lấy mẫu. Do vậy, tùy thuộc vào loại dầu, việc đánh giá thấp mức độ tiếp xúc với hơi dầu và vấn đề lấy mẫu không chính xác có thể trở nên phổ biến.

Đề tránh sự thất thoát do bay hơi, tiêu chuẩn của BGIA đã yêu cầu đặt một ống XAD-2 đằng sau bộ lọc. Phương pháp này có vẻ như phù hợp với MWF trong môi trường làm việc sạch không bị ảnh hưởng bởi hơi dung môi nhẹ như xăng  trắng (C5-C11), chất có PEL cao (525mg.m-3). Trên thực tế, tại các cửa hàng máy móc, chúng tôi quan sát thấy môi trường thường bị ô nhiễm bởi dung môi xăng  trắng hoặc các chất dung môi tẩy rửa khác, do vậy phương pháp của BGIA thường cho ước tính  nồng độ hơi dầu cao.

3.3 Phương pháp phân tích trọng trường xác định hơi dầu

Liên quan đến phương pháp phân tích, chúng tôi phát triển một phương pháp mới vì phương pháp hồng ngoại sử dụng ở Đức – phương pháp BGIA – không thể phân biệt được hơi dung môi xăng  trắng hay dung môi tẩy rửa khác. Điều đó dẫn đến việc định lượng cao nồng độ tiếp xúc thực với hơi dầu.

Phương pháp trọng trường mới gồm: trước tiên chiết xuất fin lọc và ống XAD-2 cartridge bằng CH2Cl2 sau đó xác định phần dư còn lại bằng phép đo trọng lượng sau khi đã làm bay hơi dung dịch chiết xuất theo phương pháp INRS của Pháp [6]. Đặc biệt lưu ý tốc độ bay hơi phải điều chỉnh sao cho có thể loại bỏ được CH2Cl2 hoặc các dung môi tẩy rửa khác nhưng không được làm thất thoát hơi dầu. Ngược lại với phương pháp của Pháp, chúng tôi sẽ không làm bay hơi cạn kiệt cho đến khi khối lượng không đổi mà sẽ theo dõi tốc độ bay hơi của phần sương dầu để tránh thất thoát. Việc xác định phần hơi dầu bằng phương pháp trọng trường kết hợp với làm bay hơi từ từ dung dịch chiết được thực hiện bằng cách cân lặp nhiều lần khối lượng của chất còn lại trong ống thủy tinh và tính toán lý thuyết lượng dầu dễ bay hơi. Lượng hơi dầu thực tế được tính toán sử dụng phương pháp hồi quy và chặn tại thời điểm t=0. Sau khi tách khỏi ống XAD-2 bằng dung môi hữu cơ, ví dụ CH2Cl2 hoặc tetrachlorethylene (PER), chúng tôi sử dụng thiết bị GC-FID hoặc phương pháp phân tích trọng trường đối với chất bay hơi còn lại để xác định tỉ lệ hơi dầu. Hình 1, 2 và 3 thể hiện tỉ lệ lượng CH2Cl2  (trên lý thuyết: 3,98 mg, thực tế: 3,656 mg), dung môi xăng  trắng (lý thuyết: 100 mg, thực tế: 105,2 mg) và hơi dầu (lý thuyết: 10 mg; thực tế: 9,58 mg) bằng phương pháp trọng trường với sự bay hơi từ từ của dung môi chiết, cân lặp nhiều lần khối lượng chất dư trong lọ thuỷ tinh và tính lý thuyết phần dầu bay hơi. Phương pháp này có độ chính xác cao hơn khoảng ± 20 μg bởi cách cân trực tiếp. Sai số của chất gây nhiễu, xăng  trắng và dung môi CH2Cl2 cao hơn nhiều nhưng lại không quan trọng trong việc xác định MWF. Các phương pháp lấy mẫu cổ điển khác (phương pháp ống than dừa, phương pháp GC) có thể sử dụng cùng lúc để đo dung môi xăng  trắng trong không khí. Phương pháp này hiệu quả hơn phương pháp cổ điển liên tục cân đo khối lượng, do vậy có thể giúp tránh thất thoát do dầu bay hơi. Với kỹ thuật này, chúng tôi khẳng định có thể phân tích được  hơi dầu kể cả khi có chất gây nhiễu với nồng độ cao. Phương pháp đề xuất giúp hợp thức hoá việc so sánh kết quả phân tích giữa các phòng thí nghiệm và dễ dàng áp dụng cho bất cứ phòng thí nghiệm nào mà không cần dùng đến các thiết bị đặc biệt hay dụng cụ đắt tiền nào.

3.4 Phương pháp GC-FID hoặc GC-MS xác định hơi dầu

Dựa theo tiêu chuẩn ISO16703 hướng dẫn xác định hàm lượng hydrocarbon trong đất, chúng tôi tích hợp và tính toán toàn bộ tín hiệu của thiết bị phân tích đầu dò FID trong khoảng duy trì của dung môi xăng  trắng đối với phần dầu dễ bay hơi hoặc tín hiệu theo dõi đơn ion (SIM) của ion có tỉ lệ khối lượng/điện tích – m/z 57 của phần tương ứng thể hiện phân tử hydrocarbon. Với độ phân giải cao của cột mao quản, việc tách dung môi và hơi dầu là khá dễ dàng. Việc lượng hóa thực hiện bằng cách so sánh tổng tín hiệu của mẫu đo với mẫu chuẩn, trong trường hợp này là dung dịch dầu pha loãng trong CH2Cl2 hoặc PER. Hình 4 thể hiện việc xác định thành phần hơi dầu bằng phương pháp GC-MS với việc lượng hóa bằng cách cộng toàn bộ các giá trị peak của khí béo tương ứng với phần hơi dầu (trong trường hợp này là C12 tới C24).  Hợp chất gây nhiễu – dung môi xăng  trắng, từ C5 đến C11 được tách riêng và loại bỏ. Phương pháp này cũng đã được thừa nhận và áp dụng trong việc so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm nhưng nó yêu cầu phải sử dụng các thiết bị đắt tiền như GC-MS hoặc GC-FID.

3.5 Kết quả thử Round-Robin

Hình 5 thể hiện hình ảnh khoang thí nghiệm 10m3 trong quá trình lấy mẫu Round Robin giữa các phòng thí nghiệm. Mỗi đơn vị tham gia được yêu cầu mang theo thiết bị lấy mẫu, bơm, đầu lấy mẫu, ống hấp phụ, v.v.. của riêng họ. Tất cả các PTN tham gia đều sử dụng thiết bị lấy mẫu tổng hợp (bộ lọc + ống XAD-2) để loại trừ thất thoát do bay hơi. Bảng III thể hiện kết quả của tất cả các phòng thí nghiệm, cụ thể là chỉ số tổng các hạt sương và hơi dầu được tạo ra qua 5 vòng. Như trên hình 6, đầu tiên, quan sát được thấy hơi dầu ở mức 24,18 mg/m3 (PEL của Thụy Sĩ năm 2003 = 20 mg/m3), tất cả các phòng thí nghiệm đều có chỉ số ROU <30% không kể là dùng đầu lấy mẫu nào (đầu lấy mẫu Æ47 mm BGIA, đầu lấy mẫu Æ25 mm IOM và Æ37 mm), hay phương pháp phân tích mẫu nào (IR, trọng trường hay GC-MS). Hiệu suất chung của tất cả các phòng thí nghiệm đều rất tốt, đối với nồng độ thấp: 13,75 và 3,32 mg/m3, ngoại trừ phòng thí nghiệm số 5 có chỉ số ROU cao hơn 30% một chút. Lý do chỉ số ROU cao hơn (56,3) có thể là do mức nền trắng cao, vấn đề ô nhiễm và lỗi kỹ thuật. Ở vòng 4 với sương dầu tinh khiết nồng độ 3,32 mg/m3, chúng tôi đưa thêm vào chất gây nhiễu, dung môi xăng  trắng ở nồng độ 1/5 của PEL (100 mg.m-3). Như trên hình 7, chúng tôi quan sát được sai số ở kết quả của phòng thí nghiệm số 4 và số 5, nơi áp dụng phương pháp BGIA chuẩn và kỹ thuật IR để xác định tổng lượng sương dầu. Chất gây nhiễu, thuộc họ hydrocarbon béo, hấp thụ khoảng hồng ngoại tương đương với hơi dầu và cho kết quả là cao. Các phòng thí nghiệm khác (1, 2 và 3) sử dụng phương pháp trọng trường kết hợp với kiểm soát bay hơi trong điều kiện khí nitro hoặc phương pháp GC-MS, đều cho kết quả chính xác. Ở vòng 5, hơi dầu + chất gây nhiễu (dung môi xăng  trắng và bụi Spheriglass) ở nồng độ 1,64 mg/m3, phòng thí nghiệm số 3 bị thất thoát hơi dầu trong quá trình bay hơi và cân khối lượng. Phòng thí nghiệm số 4 sử dụng phương pháp BGIA đã hiệu chỉnh và đạt được kết quả tốt. Đối với việc xác định phần hơi dầu dễ bay hơi, các phương pháp GC-FID, GC-MS và trọng trường đều đạt hiệu quả tốt, ngoại trừ một số trường hợp dầu đặc biệt, dầu chứa các hợp chất nhạy cực hoặc nhạy nhiệt mà không thể phân tích được bằng sắc ký khí. Trong những trường hợp này, chỉ có thể áp dụng được duy nhất phương pháp trọng trường.

4. Kết luận

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất 2 phương pháp mới và được công nhận hiệu quả trong việc đo hỗn hợp sương dầu và hơi dầu và khắc phục được các vấn đề thất thoát hơi dầu trong quá trình lấy mẫu và có chất gây nhiễu: bằng việc xác định riêng phần sương dầu ở fin lọc và gắn thêm ống hấp phụ (XAD-2) để giữ lại hơi dầu và cuối cùng kết thúc bằng việc xác định chọn lọc phần hơi dầu (C12-C24) đối lập với các chất gây nhiễu như dung môi tẩy rửa xăng  trắng (C5-C11).

Hai kỹ thuật có thể sử dụng để lượng hóa phần hơi dầu là: phương pháp trọng trường kết hợp với kiểm soát bay hơi trong điều kiện khí Ni tơ, bằng phương pháp FTIR, phương pháp GC-FID và phương pháp GC-MS: (1) Phương pháp trọng trường, sử dụng kiểm soát bay hơi trong điều kiện khí Ni tơ được coi là phương pháp tiêu chuẩn. Phương pháp này dễ áp dụng bởi phòng thí nghiệm nào cũng có thể làm được mà không cần sử dụng tới các trang thiết bị đặc biệt hay đắt tiền; (2) Các phương pháp thay thế khác như GC-FID hoặc GC-MS đều có giá trị khi dùng để so sánh kết quả giữa các phòng thí nghiệm.

Đối với dầu có độ nhớt thấp, việc đo lường cả sương và hơi dầu sẽ phù hợp hơn theo quy chuẩn mới của Thụy Sĩ. Việc trao đổi giữa các phòng thí nghiệm các phương pháp lấy mẫu và phân tích là rất hiệu quả; kết quả chính xác của phương pháp mới sẽ cho ra các kết quả khác phù hợp hơn cho việc đánh giá hoặc khảo sát mức độ tiếp xúc thực tế với hơi dầu trong các nghiên cứu dịch tễ sau này.

Lời cám ơn: các tác giả bài báo xin gửi lời cám ơn tới các vị: Philippe Boiteux, Pierre Alain Porchet, Christine Nicole, Corine Burla, Olivier Schenk, Konrad Schelbert and Maria Barbey đã nhiệt tình giúp đỡ phần kỹ thuật để chúng tôi hoàn thiện bài báo này.

Hình 1

Xác định trọng trường phần dung môi chiết CH2Cl2 bằng cách làm bay hơi từ từ 3ml dung dịch  và cân lặp khối lượng chất còn lại ở trong ống thủy tinh (N=4). Giá trị lý thuyết của CH2Cl2 là 3,98 g và giá trị thực tế trong thí nghiệm là 3,656 g. Thí nghiệm này chỉ ra rằng làm bay hơi từ từ dung môi chiết CH­2Cl2 sẽ tránh được thất thoát mà không cần xác định chính xác lượng dung môi. Trong điều kiện khí nito 200 ml.min-1 ở nhiệt độ 400C, tốc độ bay hơi của CH2Cl2 là 101 mg.phút-1.

Sự bay hơi của dung môi xăng  trắng: 0,9 mg.phút-1

 Nhiệt độ: 40°C, N2: 200 ml.phút-1 

Lượng dung môi tại thời điểm t=0 : 105,2 mg (Mục tiêu: 100 mg)

Hình 2.

Xác định phần dung môi xăng  trắng bằng trọng trường kết hợp với bay hơi từ từ dung dịch chiết, cân lặp khối lượng phần dư còn lại trong ống nghiệm và tính toán lượng dung môi ăng  trắng trên lý thuyết. Lượng xăng  trắng (100 mg) được tính bằng phương pháp hồi quy và thời điểm gây nhiễu bắt đầu từ T=0 (N=4) và giá đo được trong thí nghiệm là 105,2 mg. Tốc độ bay hơi của dung môi xăng  trắng là 0,9 mg.phút-1. Một lần nữa, thí nghiệm này lại cho thấy việc làm bay hơi từ từ dung môi xăng  trắng có thể tránh được thất thoát mà không cần xác định chính xác lượng xăng  trắng.

Sự bay hơi của hơi dầu: 0,003 ml.phút-1 

Nhiệt độ: 40°C, N2: 200 ml.phút-1

Lượng hơi dầu tại thời điểm t=0: 9,6 mg (Mục tiêu: 10mg)

Xác định phần hơi dầu bằng trọng trường kết hợp với bay hơi từ từ dung dịch chiết, cân lặp khối lượng phần dư còn lại trong ống nghiệm và tính toán lượng dầu dễ bay hơi trên lý thuyết. Lượng dầu dễ bay hơi thực tế (10 mg) được tính bằng phương pháp hồi quy và tại thời điểm gây nhiễu T=0 (N=4) và giá trị đo được trong thí nghiệm là 9,58 mg. Tốc độ bay hơi của dầu rất thấp: 0,003 mg.phút-1, nhưng con số này không được bỏ qua. Ngược lại với phương pháp INRS đã giả thiết khối lượng dư là cố định, phần hơi dầu được xác định bằng cách sử dụng độ nghiêng của tốc độ bay hơi.

Hình 4

Xác định phần hơi dầu bằng phương pháp GC-MS, định lượng bằng cách tính tổng của tất cả các giá trị đỉnh trên sắc ký tương ứng với phần hơi dầu (trong trường hợp này là từ C12 tới C24). Hợp chất gây nhiễu – dung môi xăng  trắng, từ C5 tới C11, sẽ được tách riêng và loại bỏ.

Hình ảnh của hàng loạt các thiết bị lấy mẫu trong khoang thí nghiệm 10 m3, trong thời gian các phòng thí nghiệm thực hiện lấy mẫu. Sương dầu được tạo ra từ các loại dầu khoáng nhẹ, trung bình và nặng dùng trong luyện kim (Somentor 29, Blaser VP1006 hoặc Blasomil 22 và Blaser 220) bằng máy xông khí chế tạo trong nước. Sương dầu tạo ra có thể điều chỉnh được trong khoảng từ 0,1 tới >20 mg/m3 và có thể được giữ cố định với độ lệch chuẩn <5% trong vòng ít nhất 6 giờ. Tính đồng nhất không gian của sương dầu trong khoang thí nghiệm nằm trong khoảng 2-3% sau khi kiểm tra tại 5 điểm khác nhau . Mỗi đơn vị tham gia sử dụng từ 5 tới 6 đầu lấy mẫu để để có thể sử dụng vào các việc khác sau này.

Hình 6

Kết quả thí nghiệm của các phòng thí nghiệm ở vòng 1 đối với dầu trung bình, tạo ra ở nồng độ 24,18 mg.m-3. Biểu đồ cho thấy được mối tương quan rất tốt của các kết quả thí nghiệm;   Phương pháp lấy mẫu và PTN hoàn toàn độc lập; đường chấm là giá trị ±30% của chỉ số Bất định Tương đối (ROU) hay sai số cộng thêm 2 lần độ lệch chuẩn, nhằm so sánh với các giá trị giới hạn thấp hơn 30% khi được sử dụng khoảng từ 0,5 tới 2 lần giá trị giới hạn, bao gồm cả sai số khi lấy mẫu và phân tích.

Hình 7

Kết quả thí nghiệm của các phòng thí nghiệm ở vòng 4 đối với dầu trung bình, tạo ra ở nồng độ 3,32 mg.m-3 có sự tham gia của chất gây nhiễu – dung môi xăng  trắng ở mức 1/5 PEL (100 mg.m-3). Biểu đồ cho thấy sai số trong kết quả đo của phòng thí nghiệm số 4 và số 5, nơi áp dụng phương pháp BGIA và phương pháp IR tiêu chuẩn để đo tổng lượng sương dầu. Chất gây nhiễu, thuộc họ hydrocarbon béo, hấp thụ khoảng hồng ngoại tương đương với sương dầu và cho kết quả cao. Các phòng thí nghiệm khác (1, 2 và 3) sử dụng phương pháp trọng trường kết hợp với kiểm soát bay hơi trong điều kiện khí nitro hoặc phương pháp GC-MS, đều đưa ra kết quả chính xác.

Bảng II. Thất thoát của phần hơi dầu thu được qua fin lọc dựa trên nhiệt độ điểm sôi (BP) hoặc nhiệt độ cháy của các loại dầu nhẹ, trung bình và nặng trong quá trình lấy mẫu. Đối với dầu nhẹ (nhiệt độ cháy: 74­oC), tất cả các phần sương dầu đều bay hơi và di chuyển vào trong ống XAD-2; đối với dầu trung bình, tỉ lệ bay hơi là 50%; và đối với dầu nặng (nhiệt độ cháy: >2500C), chỉ 25% lượng dầu bị bay hơi trong quá trình lấy mẫu. Từ năm 2003, Thuỵ Sĩ có một đề xuất PEL mới (MAK) giá trị giới hạn này là 0,2 mg.m-3 sương dầu (dầu với nhiệt độ sôi >350oC không kèm chất phụ gia) hoặc 20 mg.m-3 đối với sương dầu + hơi dầu (dầu trung bình hoặc dầu nhẹ). Trong một vài trường hợp, chúng tôi không tìm được nhiệt độ điểm sôi, vì dầu nặng bị phân rã nhiệt và nhiệt độ cháy lại thường chỉ có trong báo cáo của ngành dầu khí.

Bảng III. Nồng độ hơi dầu tạo ra và kết quả đo của các phòng thí nghiệm

Chú thích:

  1. Vòng 1, hơi dầu ở ở nồng độ 24,18 mg/m3 (PEL của Thụy Sĩ năm 2003 = 20 mg/m3), các phòng thí nghiệm đều có chỉ số ROU <30% với bất kỳ đầu lấy mẫu nào (đầu lấy mẫu Æ47 mm BGIA, đầu lấy mẫu Æ25 mm IOM và Æ37 mm) và bất kỳ phương pháp phân tích nào (IR, trọng trường hay GC-MS),
  2. Kết quả chung của tất cả các phòng thí nghiệm đều rất tốt khi hơi dầu ở nồng độ thấp, vòng 2 và 3 kết quả lần lượt là: 13,75 và 3,32 mg/m3, ngoại trừ phòng thí nghiệm số 5 có chỉ số ROU cao hơn 30% một chút,
  3.  Ở vòng 4, hơi dầu ở nồng độ 3,32 mg/m3, chúng tôi đưa vào chất gây nhiễu, dung môi xăng  trắng ở mức 1/5 của PEL (100 mg/m3), Kết quả cho thấy sai số trong kết quả của phòng thí nghiệm số 4 và số 5, nơi áp dụng phương pháp BGIA chuẩn và kỹ thuật IR để xác định tổng lượng sương dầu,
  4.  Ở vòng 5, sương dầu tinh chất ở nồng độ 1,64 mg/m3 + chất gây nhiễu (dung môi xăng  trắng và bụi trơ Spheriglass); Phòng thí nghiệm số 3 bị thất thoát hơi dầu trong quá trình làm bay hơi và cân; Phòng thí nghiệm số 4 sử dụng phương pháp BIA đã hiệu chỉnh, đạt kết quả tốt,

Tài liệu tham khảo

 [1] Ameille J, Wild P, Choudat D, Ohl G, Vaucouleur JF, Chanut JC and Brochard P 1995 American J, of Ind, Med, 27: 247-256

[2] Lafontaine M 2001 Travail et Sécurité No, 607, 36-40

[3] Eisen EA, Smith TJ, Kriebel D, Woskie SR, Myers DJ, Kennedy SM, Shalat S and Monson RR 2001 American J, of Ind, Med, 39: 443-453

[4] SUVA 2007 : Valeur limites d’exposition aux postes de travail (Permissible Exposure Limit at working places), Switzerland

[5] BIA 1997 Kühlschmierstoffe 7750, BIA-Arbeitsmappe 19, Lfg XI/1997, BG-Code 07432

[6] INRS 2003 Brouillards d’huile entière, détermination gravimétrique (Mineral oil mist, gravimetric determination) Fiche 006, INRS, France

[7] Harper M 2002 American Int Hyg Assoc J 63 488-492

[8] Turner D, Baxter HG, Davies GM, Eyres AR, Lees GL, Mitchell J, Sanderson JT, Steel J and Moore JP 1975 Ann, Occup, Hyg, 18 293-297

[9] Park D, Kim SB and Yoon CS 2003 American Int Hyg Assoc J 64 837-841

[10] Raynor PC, Volckens J and Leith D 2000 Appl, Occup, Hyg, 15 90-96

[11] Simpson AT, Groves JA, Unwin J and Piney M 2000 Ann, Occup, Hyg, 44 165-172

[12] McAneny JJ, Leith D and Boundy MG 1995 Appl, Occup, Environ, Hyg, 10 783-787

[13] Simpson AT 2003 Appl, Occup, Environ, Hyg, 18 865-876

[14] International Organisation for Standardization 1994 Accuracy (trueness and precision) of measurement methods and results Part 2 Basic method for the determination of repeatability and reproducibility, ISO 5725-2, Geneva

[15] Comité Européen de Normalisation 1994 Workplace atmospheres-General requirements for the performance of procedure for the measurement of chemical agents EN482 CEN, Brussels

[16] Huynh CK, Vu Duc T and Savolainen H 1992 American Int Hyg Assoc J 53 157-162

[17] Huynh CK, Vu Duc T and Savolainen H 1989 Ann, Occup, Hyg, 33 573-581

[18] International Organisation for Standardisation 2004 Soil quality – Determination of content of hydrocarbon in the range C10 to C40 by gas chromatography ISO 16703, Geneva

[19] Lorberau C and Glaser R 1996 National Institute for Occupational Safety and Health (NIOSH) Oil mist, mineral Method 5026 Issue 2, Manual of Analytical Methods (NMAM), 4th edition, P,C, Schlecht and P,F, O’Connor (eds,), DHHS (NIOSH) Pub no, 94-113, Cincinnati, Ohio: Department of Health and Human Services, Public Health Service, Centers for Disease Control, NIOSH,

Inhaled ParticlesX,(23–25September2008,Manchester) IOP Publishing

Journal ofPhysics:ConferenceSeries 151 (2009) 012040 doi:10,1088/1742-6596/151/1/012040

C Khanh Huynh (1), H Herrera (2), J Parrat (3), R Wolf and V Perret (4)

1. Viện an toàn sức khỏe (IST), CH-1005 Lausanne, Thụy Sỹ

2.  Phòng thí nghiệm an toàn sức khỏe , CH-1034 Peseux, Thụy Sỹ

3. SUVA, CH-6002 Luzern, Thụy Sỹ

4. Dịch vụ chống độc công nghiệp, trung tâm kiểm soát môi trường, CH-1211 Geneve, Thụy Sỹ

chhuynh@hospvd.ch


(Nguồn tin: Nilp.vn)