Phương hướng, nhiệm vụ của công tác ATVSLĐ giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2030

Thứ Sáu, 01/12/2023, 11:46(GMT +7)

Từ nay đến năm 2020, chúng ta có nhiều thuận lợi để làm tốt công tác an toàn, vệ sinh lao động vì đã có Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2012 và Luật An toàn, vệ sinh lao động có hiệu lực từ tháng 7 năm 2016, quy định các nội dung cụ thể về an toàn, vệ sinh lao động

Mặt khác, sau 20 năm thực hiện Bộ luật Lao động, các cấp, các Ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh đã thấy rõ tầm quan trọng của công tác an toàn, vệ sinh lao động trong thời kỳ mới: Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong tình hình quốc tế đều rất coi trọng đến vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu và an toàn xã hội, an sinh xã hội trên phạm vi toàn cầu.

Xu thế hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi các nước phải tuân thủ các tiêu chuẩn về AT,VSLĐ, vấn đề bảo đảm sức khỏe cho người lao động cần được đặt lên hàng đầu. Luật AT,VSLĐ là cơ sở để thúc đẩy thực hiện các công ước đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế về AT,VSLĐ của Việt Nam. Việt Nam luôn được sự quan tâm, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các quốc gia phát triển, đặc biệt là sự cam kết thúc đẩy công tác an toàn, vệ sinh lao động trong cam kết chung của Cộng đồng ASEAN.

Bên cạnh đó, việc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra các yêu cầu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Đây là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp hoạt động trong xuất khẩu. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và đang tác động nhất định tới phát triển kinh tế nước ta.

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp  có xu hướng gia tăng mạnh hơn giai đoạn 2011- 2015. Dự báo mỗi năm sẽ có khoảng 170.000 người bị tai nạn lao động với 2.000 người chết, gây thiệt hại trên 2 ngàn tỷ đồng mỗi năm.

1. Những vấn đề cấp bách cần giải quyết trong giai đoạn 2016-2010

Từ thực trạng và dự báo TNLĐ và BNN trong các năm tới, đã đặt ra các vấn đề cấp bách cần giải quyết trong giai đoạn 2013- 2020:

a) Ngăn chặn sự gia tăng tai nạn lao động, đặc biệt là các vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết nhiều người trong lĩnh vực xây dựng, khai khoáng. 

b) Tăng cường giám sát ô nhiễm môi trường lao động, từng bước cải thiện điều kiện lao động, xây dựng văn hóa AT,VSLĐ, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.

c) Nâng cao nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động, đặc biệt khu vực làng nghề, khu vực nông nghiệp, trong doanh nghiệp vừa và nhỏ, về việc bảo đảm AT,VSLĐ, gắn kết với ý thức bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng, việc làm và sự phát triển bền vững.

2. Mục tiêu đến năm 2010

2.1. Mục tiêu tổng quát

Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, phòng ngừa có hiệu quả tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ người lao động; xây dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho người lao động, giảm ô nhiễm môi trường lao động và tác động của biến đổi khí hậu, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia.

2.2. Mục tiêu cụ thể:

– Giảm 5% tần suất TNLĐ chết người; trung bình hàng năm giảm 5% tần suất TNLĐ chết người trong các ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao về TNLĐ (khai khoáng; sử dụng điện; hóa chất; xây dựng);

– Tăng 10% số cơ sở giám sát môi trường lao động; giảm 10% tổng số trường hợp mắc bệnh nghề nghiệp; trung bình hàng năm tăng 5% số cơ sở khám sức khỏe định kỳ cho người lao động, tăng 5% số người lao động được khám, phát hiện BNN.

– Trung bình mỗi năm tăng thêm 2.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng hiệu quả các mô hình quản lý công tác AT,VSLĐ.

– Trung bình mỗi năm hỗ trợ huấn luyện về AT,VSLĐ: cho 30.000 người làm các nghề, công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về AT,VSLĐ; cho 10.000 người lao động làm các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; và cho 60.000 người sử dụng lao động và các cán bộ AT,VSLĐ.

– Trên 1.000 làng nghề, 5000 hợp tác xã 30.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ được trực tiếp phổ biến thông tin phù hợp về AT-VSLĐ.

– Đảm bảo 100% người lao động đã xác nhận bị TNLĐ, BNN được nhận trợ cấp, bồi thường, chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng theo quy định của pháp luật.

– Trên 100% số vụ TNLĐ chết người trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh được điều tra, xử lý.

3. Phương hướng và các biện pháp về ATVSLĐ giai đoạn 2016-2020

1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật an toàn, vệ sinh lao động nhằm kịp thời thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 vào trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, dự án để triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng về vai trò của người lao động trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Trước mắt, khẩn trương xây dựng các quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nội dung về an toàn, vệ sinh lao động được quy định tại Luật An toàn, vệ sinh lao động; thực hiện có hiệu quả các nội dung hoạt động của Chương trình quốc gia về AT,VSLĐ giai đoạn 2016-2020 và xây dựng các chương trình phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; xây dựng quỹ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về AT,VSLĐ và lực lượng thanh tra lao động có chuyên môn để tiến hành thanh tra, kiểm tra về AT,VSLĐ và điều tra tai nạn lao động;

4.2. Triển khai hiệu quả Luật An toàn, vệ sinh lao động, với định hướng tăng cường các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ người lao động đặc biệt là lao động trong những lĩnh vực có nguy cơ cao về tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, lao động nữ và các đối tượng lao động đặc thù. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; bảo đảm nơi làm việc của người lao động đạt các quy chuẩn quốc gia về AT,VSLĐ; công bố áp dụng các chỉ tiêu, quy định, yêu cầu của các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh nơi làm việc; không ngừng cải thiện điều kiện lao động;  tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động;  ưu tiên các chính sách, giải pháp phòng ngừa và thực hiện phòng ngừa có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp..

4.3. Hoàn thiện hệ thống tổ chức và tăng cường hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động, trước hết là nghiên cứu xây dựng hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động từ Trung ương đến địa phương và tổ chức thanh tra chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động trong các lĩnh vực phóng xạ; thăm dò, khai thác dầu khí; các phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ, đường hàng không và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang để bảo đảm tính quản lý tập trung, thống nhất, đồng bộ, kịp thời, khắc phục hoặc xóa bỏ tồn tại làm hạn chế hiệu lực và quyền hạn của công tác quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động.

4.4. Các cơ quan chức năng thuộc các Bộ, Ngành, địa phương tiếp tục tổ chức triển khai phổ biến, hướng dẫn đầy đủ và nghiêm túc các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, phòng cháy chữa cháy phù hợp với trình độ phát triển của kỹ thuật mới, công nghệ mới, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển sản xuất trong thời kỳ mới. Nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh hoặc xây dựng mới các tài liệu, giáo trình kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động cho các ngành, lĩnh vực và nghề, công việc chủ yếu, phải chú ý đến những lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, các nghề, công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động.

4.5. Tăng cường giám sát ô nhiễm môi trường lao động, từng bước cải thiện điều kiện lao động, xây dựng văn hóa an toàn, vệ sinh lao động, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Tăng cường giám sát việc thực hiện đúng các qui định của pháp luật về sử dụng các sản phẩm vật liệu xây dựng, sử dụng nguyên liệu là amiăng trắng nhóm serphentine theo qui định; thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện lao động trong các doanh nghiệp, các đơn vị cơ sở không chỉ bằng công tác thanh tra, kiểm tra xử phạt mà còn phải thông qua các chính sách khuyến khích, ưu đãi (giảm thuế, miễn thuế, vay vốn với lãi suất ưu đãi…) đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có khó khăn trong việc đổi mới công nghệ, đổi mới kỹ thuật, bảo đảm việc làm, thu nhập đồng thời vừa từng bước cải thiện điều kiện lao động cho người lao động.

4.6. Bảo đảm có đủ phương tiện cá nhân thiết yếu (trang bị phòng hộ lao động), đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, chất lượng và chủng loại của các phương tiện bảo vệ cá nhân, nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong việc phòng tránh tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Phương tiện dụng cụ phòng cháy chữa cháy phải đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng và người lao động phải được huấn luyện sử dụng thành thạo; có chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất, chế tạo các trang thiết bị bảo hộ lao động,  đồng thời có hỗ trợ về vốn hoặc miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp tổ chức tốt việc sản xuất các trang thiết bị bảo hộ lao động.

4.7. Củng cố và hoàn thiện các cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động cho người lao động sau chu kỳ làm việc để phòng chống và làm chậm nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp, bồi dưỡng và tăng cường sức khỏe cho người lao động. Công tác điều dưỡng phục hồi chức năng lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp là một yêu cầu thực tế khách quan, nó không những thể hiện tính ưu việt của chế độ ta đối với việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của người lao động mà nó còn mang lại hiệu quả cao về mặt kinh tế, vì thực chất của hoạt động này chính là đầu tư để tái sản xuất sức lao động.

4.8. Tăng cường pháp chế về an toàn, vệ sinh lao động, thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh việc xử phạt các hành vi vi phạm các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, phải đưa ra xét xử kịp thời những vụ tai nạn lao động chết người. Hàng năm, tổ chức việc kiểm tra liên ngành về an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, nhằm phát hiện và khắc phục các nguy cơ về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trước mắt, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp cần tập trung kiểm tra về an toàn, vệ sinh lao động trong các ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung an toàn, vệ sinh lao động để người sử dụng lao động, người lao động thấy được ích lợi to lớn, lâu dài của việc đảm bảo AT,VSLĐ, giảm nhẹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý thông tin và truyền thông với các bộ, ngành, địa phương, lựa chọn nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp, hiệu quả nhằm làm cho các tổ chức và cá nhân thấy rõ quyền, nghĩa vụ đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động.

4.9. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động. Tập trung vào nghiên cứu các cơ sở khoa học để xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức, phương pháp tính toán và chỉ tiêu đánh giá về AT,VSLĐ; nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho NLĐ trên cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế, dễ áp dụng góp phần chăm sóc, bảo vệ sức khỏe NLĐ và nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh trong sản xuất.

4.10. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng Nhà nước với các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội, trước hết là tổ chức công đoàn các cấp, hội nông dân để đưa công tác an toàn, vệ sinh lao động mang tính quần chúng và xã hội hóa cao; phát động các phong trào quần chúng  xây dựng “ Văn hoá an toàn lao động tại doanh nghiệp” để phổ cập, nhân rộng tiến tới việc thực hiện có nề nếp, thường xuyên; chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành nội quy, quy định, biện pháp AT,VSLĐ, PCCN.

4.11. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động nhằm tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt, trong đó chú trọng việc trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm tổ chức quản lý và tận dụng những sự hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường các hoạt động AT,VSLĐ ở Việt Nam, tiến tới chủ động hỗ trợ kỹ thuật và chuyên gia đối với các nước trong khu vực ASEAN; tích cực triển khai các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương trong khuôn khổ khu vực ASEAN, quốc tế góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

4. Tầm nhìn ATVSLĐ đến năm 2030

a) Hoàn thiện các văn bản pháp luật, thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về AT,VSLĐ

Hiện nay, các văn bản pháp luật củaNhà nước về AT,VSLĐ đã khá đầy đủ, đó là các qui định tại Bộ luật Lao động, Luật AT,VSLĐ, các Nghị định của Chính phủ, các Thông tư Liên Bộ và các Thông tư, Quyết định của các Bộ, Ngành. Tuy nhiên, trước mắt phải xây dựng các văn bản hướng dẫn đầy đủ để triển khai Luật An toàn, vệ sinh lao động. Đây là một công việc, phức tạp đòi hỏi các cơ quan tham gia phải tập trung nhiều thời gian và trí tuệ để Luật An toàn, vệ sinh lao động được triển khai có hiệu quả, khắc phục tình trạng yếu kém của công tác thanh tra nhà nước về AT,VSLĐ như hiện nay.

b) Nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về AT,VSLĐ cho Người sử dụng lao động và người lao động

Đây là vấn đề cốt lõi, mang tính quyết định đến hiệu quả thực hiện công tác AT,VSLĐ nói chung và công tác thanh tra AT,VSLĐ nói riêng. Thực tế cho thấy ở đâu người sử dụng lao động, người lao động có hiểu biết về mục đích, ý nghĩa của công tác AT,VSLĐ, hiểu biết những qui định của pháp luật về AT,VSLĐ và tự giác chấp hành các qui định đó thì ở đó các sự cố và tai nạn lao động ít xảy ra. Để luật pháp Nhà nước về AT,VSLĐ đi vào cuộc sống, phải tăng cường một cách có hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền và huấn luyện về AT,VSLĐ.

c) Củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức thanh tra Nhà nước về AT,VSLĐ

Theo qui định của Bộ luật Lao động năm 2012 thì chức năng thanh tra Nhà nước về AT,VSLĐ do Bộ LĐTB và XH và các Sở LĐTB và XH địa phương thực hiện. Với cơ cấu tổ chức hệ thống thanh tra AT,VSLĐ như hiện nay rất khó để thực hiện tốt chức năng thanh tra Nhà nước về AT,VSLĐ. Hiện nay ở Bộ LĐTB và XH có Phòng Thanh tra AT,VSLĐ trực thuộc thanh tra Bộ, ở các Sở LĐTB và XH địa phương, mỗi sở chỉ có 2 đến 3 thanh tra viên AT,VSLĐ nằm trong thanh tra sở, thậm chí có địa phương chỉ có 1, 2 thanh tra viên AT,VSLĐ. Với cơ cấu tổ chức và lực lượng thanh tra viên AT,VSLĐ như vậy không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Vì vậy, việc củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức thanh tra AT,VSLĐ là hết sức cần thiết và cũng là yêu cầu thực tế khách quan. Hiện nay, Luật An, toàn vệ sinh lao động đã quy định về thanh tra chuyên ngành về AT,VSLĐ. Đây là một cơ hội hết sức quan trọng để có thể đưa các qui định mới nhằm tăng cường và củng cố hệ thống tổ chức thanh tra Nhà nước về AT,VSLĐ vào Luật AT,VSLĐ.

Hiện nay, số lượng thanh tra viên lao động trong cả nước chỉ hơn 400 người, trong đó thanh tra viên AT,VSLĐ chiếm khoảng 1/3 số thanh tra viên lao động. Với số lượng thanh tra viên AT,VSLĐ như vậy mà đối tượng phải thanh tra là hơn 6 vạn doanh nghiệp, (chưa kể các cơ sở sản xuất trong các làng nghề, trong lĩnh vực nông nghiệp) thì thực sự bất cập, không thể góp phần hạn chế được sự cố, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Vì vậy, tăng cường số lượng thanh tra viên AT,VSLĐ là một yêu cầu cấp bách. Tuy nhiên, muốn tăng cường số lượng thanh tra viên phải thay đổi lại cơ cấu tổ chức thanh tra Nhà nước về AT,VSLĐ.

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có Trường đào tạo thanh tra viên AT,VSLĐ. Thanh tra viên AT,VSLĐ được tuyển chọn từ những người đã tốt nghiệp các trường Đại học kỹ thuật và Đại học Y. Do đó để nâng cao chất lượng thanh tra viên cần phải tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra và những lĩnh vực nghiệp vụ có liên quan. Nói một cách khác, việc đào tạo và đào tạo lại đối với thanh tra viên AT,VSLĐ là một việc phải làm thường xuyên. Thanh tra viên mà yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, kém về kỹ năng thanh tra sẽ làm yếu lực lượng thanh tra trong khi số lượng còn rất ít ỏi.

d) Xây dựng quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Theo xu hướng hiện nay của các nước trên thế giới thì hoạt động của quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp không chỉ đơn thuần tập trung vào giải quyết hậu quả, chia sẻ rủi ro khi tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra mà hướng đến các hoạt động phòng ngừa, các hoạt động giúp người lao động tái hòa nhập thị trường lao động và xã hội.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ hiện nay, tăng cường  sự chia sẻ rủi ro khi tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra, thúc đẩy sự chủ động của các cơ sở trong việc thực hiện công tác an toàn – vệ sinh lao động, khắc phục các bất cập của quỹ  hiện nay, thực hiện đầy đủ ý nghĩa  của quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cần thực hiện các nguyên tắc xây dựng quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau:

– Mô hình quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải đảm bảo tốt hơn lợi ích của doanh nghiệp, người lao động, Nhà nước và ổn định xã hội, phù hợp với  sự phát triển kinh tế xã hội, không gia tăng gánh nặng cho doanh nghiệp;

– Không tăng thêm bộ máy hành chính, tăng cường vai trò điều phối và quản lý nhà nước trong việc ngăn chặn tai nạn trên cơ sở tận dụng tối đa nhân lực, có sở vật chất hiện có trong quản lý nhà nước về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

– Đảm bảo tính kế thừa và phù hợp với quy định quốc gia, thông lệ quốc tế; đảm bảo sự hội nhập kinh tế quốc tế;

– Đảm bảo sự tham gia đầy đủ của các tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình thiết kế xây dựng quỹ;

– Mức đóng phù hợp có sự điều chỉnh theo tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp cải thiện điều kiện lao động;

– Thiết kế mức hưởng hợp lý trên cơ sở bảo vệ đầy đủ và tối ưu các quyền lợi của người lao động; xác định bồi thường như nhau ở cùng một mức thương tật, theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít; không chi trả cho các thiệt hại về tài sản của người sử dụng lao động;

– Có cơ chế đầu tư hiệu quả trong việc đầu tư phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp  nhằm bảo toàn tăng trưởng quỹ và tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính;

– Được điều chỉnh kịp thời để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế – xã hội.

e) Phát huy kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học và hợp tác quốc tế

Công tác nghiên cứu khoa học (kể cả khoa học về quản lý) sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả công tác quản lý về AT,VSLĐ nói chung và thanh tra AT,VSLĐ nói riêng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực AT,VSLĐ, tạo điều kiện để có thể áp dụng kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển và tạo thêm nguồn lực để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước về AT,VSLĐ và của cơ quan Thanh tra AT,VSLĐ, giúp Việt Nam sớm hòa nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.

f) Xử lý nghiêm minh và kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về AT,VSLĐ

Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra AT,VSLĐ và để ngăn chặn và hạn chế các sự cố, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải thường xuyên và kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật Nhà nước về AT,VSLĐ. Việc xử lý trách nhiệm đối với những người có lỗi để xảy ra tai nạn lao động, đặc biệt là các vụ tai nạn lao động chết người nghiêm trọng phải được thực hiện một cách nghiêm minh, đúng người, đúng tội. Thời gian vừa qua, số vụ tai nạn lao động chết người nghiêm trọng bị đề nghị truy tố trước pháp luật chiếm khoảng 2% số vụ tai nạn lao động chết người được điều tra. Tuy nhiên, thực tế số vụ được đưa ra xét xử lại rất ít. Việc xử lý thiếu nghiêm minh không có tác dụng răn đe, thậm chí còn dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật.

5. Giải pháp thực hiện

a) Nhóm giải pháp về thể chế chính sách

–  Ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn Luật An toàn, vệ sinh lao động để điều chỉnh toàn diện và thống nhất các vấn đề về quản lý an toàn, vệ sinh lao động, trong đó có các quy định về đối tượng, phạm vi và nội dung phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam là một nước đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó đa số các cơ sở sản xuất kinh doanh là những doanh nghiệp nhỏ và vừa với hàng triệu hộ cá thể, lao động tự do và lao động nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn…; đặc biệt coi trọng và ưu tiên các giải pháp phòng ngừa trong AT,VSLĐ, chủ động phòng tránh TNLĐ, BNN, chăm lo cải thiện ĐKLV, quản lý và chăm sóc sức khoẻ NLĐ.

–  Xã hội hóa các dịch vụ kỹ thuật, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; phát huy vai trò của các cơ sở lao động, tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

–  Khuyến khích, hỗ trợ hoặc cho vay vốn để các cơ sở lao động đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, sử dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường, góp phần cải thiện môi trường lao động, giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các bệnh liên quan nghề nghiệp.

–  Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động theo hướng kiểm soát các yếu tố có nguy cơ; việc quản lý dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật.

b) Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện

–  Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý của các cấp chính quyền; gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cơ sở lao động trong việc thực hiện chính sách pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.

–  Tổ chức tốt việc truyền thông, giáo dục pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động đối với người sử dụng lao động, người lao động.

–  Thành lập thanh tra chuyên ngành an toàn, vệ sinh lao động, xây dựng các chế tài đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại các cơ sở lao động. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; có cơ chế phối hợp hoạt động giữa lực lượng thanh tra của các bộ, ngành.

–  Đảm bảo cấp đủ ngân sách nhà nước cho hoạt động quản lý an toàn, vệ sinh lao động, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động; cải tiến công tác nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán, giám định bệnh nghề nghiệp mới;

– Xây dựng cơ chế quỹ bồi thường TNLĐ-BNN để giảm khó khăn cho các đơn vị sử dụng lao động hay bị xảy ra TNLĐ, mắc BNN, đồng thời có cơ chế đầu tư cho các hoạt động phòng ngừa, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cải thiện điều kiện bằng cách giảm mức tham gia bảo hiểm.

–  Có chế độ thu hút cán bộ vào làm việc trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động và y tế dự phòng; có quy định cụ thể về chương trình đào tạo chuyên ngành an toàn, vệ sinh lao động.

c) Giải pháp về tổ chức bộ máy, lực lượng làm công tác an toàn, vệ sinh lao động

Luật An toàn, vệ sinh lao động được Quốc Hội thông qua vào tháng 6 năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cường hoạt động phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và mở rộng phạm vi, đối tượng của công tác an toàn, vệ sinh lao động đến được mọi người lao động trong cả khu vực có quan hệ lao động và khu vực không có quan hệ lao động; thiết lập chặt chẽ hơn hệ thống kiểm soát rủi ro ở các cấp: nơi làm việc, doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức bộ máy, lực lượng làm công tác an toàn, vệ sinh lao động trong thời gian tới sẽ được củng cố, như sau:

–  Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý và đầu tư cho công tác AT,VSLĐ, trong đó ưu tiên các hoạt động: hoàn thiện khung khổ pháp luật về AT,VSLĐ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp quy dưới luật về AT,VSLĐ và hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về AT,VSLĐ.

–  Hoàn thiện hệ thống tổ chức và tăng cường hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động, trước hết là nghiên cứu xây dựng hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động từ trung ương đến địa phương và tổ chức thanh tra chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động trong các lĩnh vực phóng xạ; thăm dò, khai thác dầu khí; các phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ, đường hàng không.

– Xây dựng và triển khai các mô hình quản lý an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh phù hợp với các cơ sở lao động trong  làng nghề, hợp tác xã, quy mô doanh nghiệp. Đảm bảo mỗi doanh nghiệp phải có người có chuyên môn phù hợp hoặc được bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về an toàn, vệ sinh lao động. Tại các doanh nghiệp có quy mô từ 300 lao động trở lên phải có biên chế người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động chuyên trách phù hợp với số lượng lao động và mức độ nguy cơ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

–  Phát huy vai trò và sự tham gia ngày càng tăng của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức khác, kể cả của tư nhân vào hoạt động AT,VSLĐ trong khuôn khổ qui định của pháp luật.

–  Đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, tập trung xây dựng chương trình hành động, kế hoạch và tổ chức triển khai các chính sách, chương trình, dự án AT,VSLĐ; tiếp nhận nguồn lực của trung ương và huy động nguồn lực tại chỗ; quản lý nhà nước về các hoạt động sự nghiệp AT,VSLĐ do trung ương chuyển giao về địa phương; tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện chính sách AT,VSLĐ ở địa phương, nhất là trong các doanh nghiệp…

– Tổ chức triển khai có hiệu quả Tháng hành động Quốc gia về An toàn, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp, nơi làm việc.

 – Tiếp tục triển khai các Chương trình Quốc gia an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2016-2020 và các giai đoạn tiếp theo với các trọng tâm, ưu tiên cho lĩnh vực có nguy cơ cao và khu vực không có quan hệ lao động.


(Nguồn tin: Hồ sơ Quốc gia về ATVSLĐ giai đoạn 2010-2015)