Đánh giá sự biến đổi nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí trong và xung quanh chuồng nuôi bò sữa hộ gia đình khi sử dụng chế phẩm vi sinh vật COSTE MT 01

Thứ Sáu, 01/12/2023, 10:26(GMT +7)

I. MỞ ĐẦU

Huyện Duy Tiên, Hà Nam là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển đàn bò sữa đặc biệt các xã ven sông Hồng như: Mộc Bắc, Trác Văn, Chuyên Ngoại,…vì có diện tích đất phù sa lớn. Tính đến tháng 10/2017, huyện Duy Tiên có 107 hộ chăn nuôi bò sữa đạt tổng cộng 1.792 con, trong đó, 710 con bò mẹ đang cho sữa. Sản lượng sữa đạt 13,03 tấn/ngày. Phát triển chăn nuôi bò sữa đã tạo nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho hàng nghìn lao động địa phương thông qua hoạt động chăn nuôi, trồng cỏ, dịch vụ thu mua sữa….

Hiện nay, 100% hộ dân đều sử dụng hầm biogas để xử lý chất thải rắn và nước thải. Tuy nhiên, một vấn đề rất lớn hiện nay là mùi khó chịu phát sinh do hoạt động chăn nuôi. Trong chăn nuôi bò sữa, các chất khí phát thải chủ yếu gồm CO2, NH3, CH4, H2S… [3], trong đó, một số gây hiệu ứng nhà kính và một số tạo mùi hôi khó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người và vật nuôi. Các khí này sinh ra một phần từ sự biến đổi sinh hóa trong quá trình tiêu hóa thức ăn trong dạ cỏ và phần khác do quá trình phân hủy tiếp tục các chất hữu cơ dư thừa  trong phân. Xử lý mùi khó chịu trong chăn nuôi là cấp thiết nhằm cân bằng giữa nhu cầu sản xuất và nhu cầu được sống trong môi trường sạch của người dân.

Hiện nay, có nhiều biện pháp khác nhau để giảm mùi khó chịu cho khu vực chăn nuôi, bao gồm việc sử dụng dung dịch anolyst, ozon, chế phẩm sinh học… Mỗi biện pháp xử lý có cơ chế hoạt động khác nhau, ưu nhược điểm khác nhau. Trong khuôn khổ bài báo này, các tác giả đề cập đến sự biến đổi nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí xung quanh khu vực chuồng trại chăn nuôi bò sữa và hiệu quả giảm thiểu mùi do sử dụng chế phẩm vi sinh COSTE MT01.

II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

– Chế phẩm vi sinh COSTE-MT01:

+ Vi khuẩn Bacillus spp. …………………….108CFU/l

+ Vi khuẩn Lactobacillus spp……………..108CFU/l

+ Nấm men Saccharomyces sp…………….108CFU/l

+ Enzym amylase, cellulase, protease…

– Khí thải chăn nuôi trong không khí trong và xung quanh chuồng nuôi bò sữa.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện tại 05 chuồng nuôi bò sữa của các hộ dân ở xã Mộc Bắn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Phun chế phẩm COSTE MT01 với nồng độ pha loãng 1/50. 1 lít chế phẩm phun cho 200m2 mặt sàn. Ngày đầu tiên phun 02 lần vào đầu buổi sáng và cuối buổi chiều, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 phun 01 lần vào cuối buổi chiều sau đó phun lặp lại 01 lần/tuần. Phun toàn bộ mặt sàn chuồng nuôi, bờ tường và diện tích đất xung quanh chuồng (bán kính 05 m), khu chứa phân của trang trại.

Tất cả các lần phun chế phẩm đều thực hiện vào thời điểm sau khi rửa vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.

Mẫu 0h được lấy ngay đầu giờ sáng, khi chưa phun chế phẩm. Các mẫu lấy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng được thực hiện thống nhất vào cùng một thời điểm là đầu giờ sáng trước khi vệ sinh chuồng nuôi.

Các vị trí lấy mẫu khí được bố trí ở trong chuồng nuôi bò sữa của các hộ dân và ở khoảng cách 5-10m xung quanh chuồng nuôi. Hình 1 là vị trí địa lý các hộ dân tham gia thử nghiệm.

Xác định các thông số CO2, H2S, NH3, CH4 trong không khí trong và xung quanh chuồng trại bằng các phương pháp, thiết bị sau đây:

– Xác định CO2 bằng thiết bị đo nhanh Testo 435;

– Xác định  H2S  theo phương pháp MASA Method 701: H2S trong không khí được hút sục qua dung dịch Cd(SO4)2. Khi đó, Sulfide sẽ được kết tủa thành cadmium sulfide (CdS) để tránh sự oxi hóa của không khí. Arabinogalactan được thêm vào Cd(SO4)2 trước mẫu để giảm tối đa sự phân hủy quang học của CdS được kết tủa. Sulfide tác dụng với N,N-dimethyl-p-phenylenediamine và với sự có mặt FeCl3  trong môi trường axit, cho màu methylene blue, đo ở bước sóng 660nm;

– Xác định  NH3 theo TCVN 5293:1995: Phương pháp dựa trên cơ sở tác dụng của amoniac với hipoclorit và phenol có sự tham gia của chất ổn định phản ứng là natri nitropruxit. Cường độ nhuộm màu xanh của dung dịch indophenol phụ thuộc vào hàm lượng ammoniac;

– Xác định CH4  theoTCVN 8715:2011 (ISO 25193:2011): Khí mẫu được hút từ ống khí qua hệ thống lấy mẫu và được bơm vào túi hoặc hộp lấy mẫu khí. Phần mẫu được lấy bởi túi lấy mẫu khí và đưa vào hệ thống sắc ký khí sử dụng detector FID, ECD và TCD.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Sự biến đổi nồng độ chất khí gây mùi khó chịu trong khu vực chuồng nuôi

Trong ngành chăn nuôi, hai loại khí chủ yếu gây ra mùi hôi thối, khó chịu phải kể đến là khí NH3 và khí H2S. Các khí này là kết quả của hoạt động phân hủy chất hữu cơ dư thừa trong phân, nước tiểu của  vi sinh vật. Để đánh giá hiệu quả của chế phẩm vi sinh COSTE MT01 khi sử dụng để xử lý mùi hôi cho trang trại chăn nuôi bò sữa tại Hà Nam các mẫu khí được lấy tại các thời điểm: trước khi xử lý, 4h sau khi xử lý, mẫu hàng ngày ở tuần đầu tiên và lấy mẫu định kỳ 2 tuần 1 lần. Thời gian theo dõi, đánh giá: 30 tuần. Kết quả được trình bày ở Hình 2.

Kết quả theo dõi trong 30 tuần tại Mộc Bắc, Duy Tiên, Hà Nam cho thấy: Ngay sau khi áp dụng chế phẩm vi sinh, nồng độ các chất khí gây mùi đều giảm mạnh đặc biệt là khí H2S. Sau 24 giờ, nồng độ khí H2S trong không khí ở khu vực chuồng nuôi đã giảm khoảng 50%. Sau 48 giờ, nồng độ khí H2S trong chuồng nuôi đã giảm xuống dưới 0,04 mg/m3 và duy trì ở mức 0,03 – 0,04 mg/m3 trong suốt 30 tuần theo dõi, thấp hơn giá trị cho phép là 0,042mg/m3 theo QCVN 06:2009/BTNMT.

Đối với khí NH3, sau 48 giờ xử lý, nồng độ cũng giảm được khoảng 70% từ 1,350mg/m3 xuống còn 0,425mg/m3 vẫn còn cao gấp 2 lần giá trị cho phép theo QCVN 06:2009/BTNMT. Từ đó trở đi đến tuần thứ 30, hàm lượng khí NH3 không giảm mà dao động xung quanh giá trị 0,4mg/m3. Lượng khí NH3 ở trong chuồng nuôi phát sinh do hai nguyên nhân: thứ nhất đây là thành phần đặc trưng trong nước tiểu của vật nuôi, thứ 2 là do hoạt động phân hủy các chất protein dư thừa trong phân do hoạt động của vi sinh vật. Chế phẩm vi sinh vật chỉ có thể hạn chế được quá trình phát thải thứ 2 mà không hạn chế được quá trình phát thải thứ nhất.

3.2. Sự biến đổi nồng độ các chất khí nhà kính trong khu vực chuồng nuôi

Trong khí thải chăn nuôi, hai loại khí nhà kính, đồng thời có khả năng gây ngạt là khí CO2 và CH4. Khí CO2 sinh ra do hoạt động hô hấp của vật nuôi và quá trình phân hủy hoàn toàn chất hữu cơ của vi sinh vật. Khí CH4 là chất khí gây hiệu ứng nhà kính cao gấp 23 lần so với khí CO2[4].

Kết quả theo dõi nồng độ của CH4 và CO2 trong không khí ở trong chuồng nuôi được biểu diễn trong Hình 3.

Nồng độ khí CO2 tăng lên một chút sau khi sử dụng chế phẩm vi sinh COSTE MT01. Nồng độ khí CO2 tăng mạnh ngay trong 12 giờ đầu áp dụng, sau đó, dao động trong khoảng 330 – 350 ppm. Tuy nhiên, ở nồng độ 330 – 350 ppm, khí CO2 không ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người và gia súc [5]. Hơn nữa, xung quanh khu vực chăn nuôi là các cánh đồng cỏ voi, vườn cây ăn trái, nên lượng CO2 thải ra sẽ được làm sạch nhờ quang hợp của cây xanh.

Khí CH4 là một loại khí phát sinh nhiều trong chăn nuôi bò sữa do CH4 không chỉ sinh ra do hoạt động phân hủy kỵ khí của hệ vi sinh vật yếm khí mà còn là sản phẩm của quá trình chuyển hóa thức ăn trong dạ cỏ. Khí CH4 giảm nhanh sau 48 giờ áp dụng chế phẩm vi sinh, sau đó dao động trong khoảng 4mg/l .

Sự tăng khí CO2 giảm khí CH4, H2S, NH3 có thể giải thích là do khi sử dụng chế phẩm vi sinh COSTE MT01, các vi sinh vật có lợi đã cạnh tranh môi trường dinh dưỡng với các vi sinh vật kỵ khí, đồng thời sự hô hấp của các chủng Bacilus, lactobacillus, Sacharomycesđã sinh ra sản phẩm hô hấp là khí CO2 nên nồng độ khí CO2 tăng lên và nồng độ các khí: CH4, H2S, NH3 giảm xuống. Kết quả này cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu của PGS.TS.Tăng Thị Chính khi sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý mùi hôi cho chuồng trại chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi lợn bằng đệm lót sinh học [1, 2].

3.3. Đánh giá sự biến đổi nồng độ các chất khí ở khu vực xung quanh chuồng nuôi

Kết quả đo đạc nồng độ các chất khí tại các vị trí cách chuồng nuôi 5-10m được trình bày trong Bảng 1.

Kết quả đo đạc cho thấy nồng độ các chất khí độc hại như NH3, H2S đều thấp hơn giá trị cho phép theo QCVN 06:2009/BTNMT.  Khí CO2, CH4 ở khu vực xung quanh trang trại cũng giảm so với nồng độ ở khu vực giữa chuồng nuôi do đã được pha loãng.

Hiện nay, các chuồng trại chăn nuôi bò sữa ở Mộc Bắc đều có kết cấu hở, trang bị quạt trục vừa để thông thoáng, làm mát cho đàn bò sữa vào mùa hè, vừa cấp khí tươi vào chuồng nuôi và pha loãng khí thải chăn nuôi.

Việc sử dụng chế phẩm vi sinh đã giúp làm giảm sự phát thải các chất khí độc hại, khí nhà kính ra môi trường xung quanh. Các hộ ứng dụng chế phẩm vi sinh vật đều có nhận xét cảm quan chung rằng mùi hôi của chuồng trại đã giảm đi rõ rệt. Sau khi phun chế phẩm khoảng 2 ngày, công nhân không còn cảm nhận được mùi hôi xộc lên mũi nữa.

4. KẾT LUẬN

Khi sử dụng chế phẩm vi sinh COSTE MT01 phun vào nền chuồng, tường bao và khu vực chứa phân xung quanh khu vực chăn nuôi đã làm thay đổi nồng độ các chất khí thải ra môi trường. Nồng độ các chất khí độc hại như: CH4, NH3, H2S giảm 50% – 70% so với thời điểm trước khi sử dụng chế phẩm. Nồng độ khí CO2 tăng nhẹ do hoạt động phân huỷ các hợp chất hữu cơ còn lại trong chất thải của các vi sinh vật hiếu khí,tuy nhiên, vẫn ở mức thấp, không ảnh hưởng đáng kể tới con người và gia súc.

5. LỜI CÁM ƠN

Bài báo được thực hiện từ kinh phí sự nghiệp khoa học của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Nam và Trung tâm Khoa học công nghệ và Môi trường – Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn ban lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ Tỉnh Hà Nam, Trung tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường đã tạo điều kiện cho chúng tôi được thực hiện các nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1]. Tăng Thị Chính (2015) Xây dựng mô hình sản xuất và ứng dụng chế phẩm vi sinh hữu ích để xử lý mùi trong chuồng trại chăn nuôi gia cầm, Báo cáo tổng kết đề tài Mã số: NSVSMT/13-14,Viện Công nghệ môi trường.

[2]. Tăng Thị Chính, Đặng Thị Mai Anh, Nguyễn Thị Hòa và Trần Văn Tựa (2013) Ứng dụng chế phẩm vi sinh Sagi-Bio để xử lý chất thải rắn chăn nuôi lợn, Báo cáo khoa học – Hội nghị sinh học toàn quốc 2013 Tập 2, tr. 80-8.

[3]. Bùi Hữu Đoàn, Nguyễn Xuân Trạch, Vũ Đình Tôn (2011), Bài giảng Quản lý chất thải chăn nuôi, NXB Nông Nghiệp.

[4]. Koneswaran, G. and D. Nierenberg(2008),Global farm animal production and global warming: Impacting and mitigating climate change,pp164-169, Proceedings of International Conference on Livestock and Global climate Change17-20 May, 2008 in Hammamet, Tunisia, Cambridge Univesity Press.

[5]. Bakker G. C.M., Bakker J.G.M., Dekker R.A.,Jongbloed R., Evernts H., Van der Meulen J., Ying S. C., Lenis N. P. (1996),The quantitatve relationship between  absorption of nitrogen and starch from the hindgut of pigs, J. Anim. Sci., 74, pp188.

[6]. Bộ tài nguyên và môi trường, QCVN 06:2009/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về một số chất độc hại trong không khí xung quanh..

Nguyễn Thị Hòa1, Lê Tuấn An1, Nguyễn Đức Anh1, Bùi Văn Công1, Phạm Yến Dung2,

1.Trung Tâm Khoa học Công nghệ và Môi trường

2.Lớp 25 KHMT21 – Trường Đại học Thủy lợi


(Nguồn tin: Vnniosh.vn)