Môi trường lao động của nhân viên y tế trong những năm gần đây

Thứ Sáu, 01/12/2023, 10:25(GMT +7)

Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá môi trường lao động của nhân viên y tế (NVYT) tại một số bệnh viện thuộc tuyến trung ương và tuyến tỉnh.

TÓM TẮT

Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá môi trường lao động của nhân viên y tế (NVYT) tại một số bệnh viện thuộc tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Các yếu tố (vật lý, bụi, hóa học, vi sinh vật) trong môi trường lao động của NVYT được đo đạc trong năm 2014-2015. Các đặc điểm đặc thù nghề nghiệp cũng được phân tích để đánh giá căng thẳng nghề nghiệp trong môi trường làm việc ở nhân viên y tế.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa/phòng  đều nằm trong giới hạn cho phép ngoại trừ tại một số ít vị trí đo có nhiệt độ, hàm lượng khí CO2, Formaldehyt và yếu tố vi sinh vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TTCP). Cường độ làm việc cao; thời gian làm việc kéo dài, không ổn định; phải trực đêm, trách nhiệm công việc lớn; tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của bệnh nhân; tiếp xúc với nhiều loại hóa chất có hại trong quá trình pha chế thuốc, làm xét nghiệm và điều trị cho bệnh nhân; nguy cơ cao lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu (Viêm gan B, Viêm gan C, HIV…)  …  là các yếu tố đặc thù nghề nghiệp của NVYT.

Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp làm giảm gánh nặng lao động ở NVYT.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Lao động nhân viên y tế (NVYT) là dạng lao động đặc thù. NVYT có nguy cơ cao lây các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, viêm gan vi rút B, C, HIV, vv…;  nguy cơ tiếp xúc với các tác hại không truyền nhiễm như tiếp xúc với các hóa chất tiệt trùng, tiếp xúc với tiếng ồn, nguy hiểm do tiếp xúc với bức xạ ion hóa, sóng siêu âm, điện từ trường tần số cao và các chất độc hại cũng như các chất gây dị ứng như các chất khử trùng, khí gây mê, các thuốc độc tố tế bào và các khí dùng trong y học (như pentamidine, ribavirin), các chất thải trong bệnh viện và ngoài ra là stress thể lực và tâm thần khi phải chăm sóc bệnh nhân (Brandenburg, 2002, Eickman 2002) [1], [2]. Nghiên cứu của Elizabeth Dougherty tại Mỹ năm 2009 cho thấy khoảng 60% NVYT (chuyên khoa ung thư và đơn vị chăm sóc giảm đau) bị stress do công việc [3].

II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đánh giá môi trường lao động của nhân viên y tế tại một số bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh

III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

Môi trường lao động của nhân viên y tế tại 2 bệnh viện (tuyến trung ương) và 2 bệnh viện (tuyến tỉnh).

2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Thiết kế nghiên cứu: sử dụng phương pháp điều tra cắt ngang mô tả

2.2. Phương pháp và kỹ thuật sử dụng: phương pháp đo và kỹ thuật lấy mẫu, xét nghiệm theo “Th­ường quy kỹ thuật của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường năm 2002 ”.

2.2.1. Đo các yếu tố môi trường lao động:

– Các yếu tố vật lý:

+ Đo vi khí hậu (Nhiệt độ; Độ ẩm; Vận tốc gió) bằng máy Kestrel – Mỹ

+ Đo ánh sáng bằng máy Extech

+ Đo tiếng ồn có phân tích dải tần số bằng máy NA-21 hãng Rion, Nhật

+ Đo bức xạ ion hóa bằng máy Inpector của Mỹ 

+ Đo điện từ trường tần số cao bằng máy CA-43 của Pháp.

– Yếu tố bụi: Đo bụi toàn phần bằng phương pháp cân trọng lượng sử dụng máy lấy mẫu SKC kết hợp với máy đo bụi điện tử Micro Dust Pro- Mỹ. Kết quả biểu thị bằng nồng độ bụi toàn phần, mg/m3

– Hơi khí độc: Sử dụng máy quang phổ hấp thụ nguyên tử Perkin Elmer – Analyst 700 – Mỹ; máy sắc ký khí GC/FID/MS Thermo Finigan – Trace – Nhật Bản; máy quang phổ UV-VIS Helios α của Anh; máy Quest EVM7 – Mỹ; máy lấy mẫu không khí KIMOTO HS-7 của Nhật;

* Tiêu chuẩn đánh giá: Tiêu chuẩn cho phép (TCCP) TCVN 5508 -2009; TCVN 3718-1:2005; QCVN 26: 2010/BTNMT; TCVN 6561-1999, Quyết định số 3733/2002/QĐ-BYT; TCVN 3985 – 1999;

– Yếu tố Vi sinh vật: sử dụng phương pháp xét nghiệm:

+ Môi trường Nutrien agar: xác định tổng số vi khuẩn hiếu khí ở nhiệt độ nuôi cấy 370C/48 giờ.

+ Môi trường Sabouraud agar: xác định tổng số nấm mốc ở nhiệt độ 280C/ 7-10 ngày.

+ Môi trường thạch máu: xác định tổng số cầu khuẩn tan máu ở nhiệt độ nuôi cấy 370C/24 giờ.

* Tiêu chuẩn đánh giá: tiêu chuẩn của WHO (dành cho bệnh viện) ; Tiêu chuẩn Safir (áp dụng đối với không khí trong nhà).

2.2.2. Đánh giá gánh nặng lao động theo đặc điểm yêu cầu của công việc bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn và bấm thời gian lao động.

2.3 Xử lý số liệu: theo phương pháp thống kê y học.

IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Môi trường lao động của nhân viên y tế

1.1. Yếu tố vật lý

Nhận xét:

– Nhiệt độ không khí tại các vị trí khảo sát dao động từ 22,4-33,5 0C. So với TCCP, đa số các vị trí đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép (TCVSCP) (TCVN 5508-2009), có 2 vị trí nhiệt độ cao hơn TCCP (bếp ăn và khu tiệt khuẩn trung tâm) do tại thời điểm đo nhiệt độ không khí ngoài trời cao; các phòng không sử dụng điều hòa cục bộ, chỉ sử dụng điều hòa trung tâm và quạt trần hoặc quạt treo tường; số lượng người (cán bộ, bệnh nhân và người nhà) trong phòng đông. Độ ẩm dao động từ 45,8-84,5%. So với TCVSCP, hầu hết các vị trí (96,8%) đều có độ ẩm không khí đạt TCVSCP (TCVN 5508-2009). Tốc độ gió tại các vị trí khảo sát dao động từ 0,12-1,25m/s; có 7 vị trí (4,5%) không đạt TCVSCP (TCVN 5508-2009).

– Cường độ chiếu sáng đo được tại các vị trí dao động từ 46-592Lux. Hầu hết tất cả các vị trí, cường độ chiếu sáng đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép (TCVSCP) theo Quyết định số: 3733/2002/QĐ – BYT). Do đặc thù của công việc, phòng phân tích nhiễm sắc thể có cường độ chiếu sáng thấp hơn TCVSCP theo Quyết định số: 3733/2002/QĐ – BYT.

– Tiếng ồn tại các vị trí đo được dao động từ 52-88dBA. So với TCCP (TCVN 5949 : 1998 ; TCVN 3985 – 1999) hầu hết các vị trí cường độ tiếng ồn đều nằm ở mức giới hạn cho phép.

– Điện từ trường tần số cao tại các vị trí đo dao động từ 8,7-43,5V/m. So với TCCP (TCVN 3718-1:2005) tất cả các vị trí có điện từ trường đều nằm ở mức giới hạn cho phép.

– Liều xuất phóng xạ đo đ­ược ở các vị trí dao động từ  0,17- 0,29msv/h. So với TCCP (TCVN 6561/1999), tất cả các vị trí liều suất phóng xạ đều nằm ở mức giới hạn cho phép.

1.2. Bụi các loại

Nhận xét: Nồng độ bụi tại các vị trí đo dao động từ 0,11 – 0,58 mg/m3. So với TCVSCP (theo Quyết định 3733/2002/QĐ-BYT), tất cả các vị trí nồng độ bụi đều nằm ở mức giới hạn cho phép.

1.3. Yếu tố hóa học, hơi khí độc

Bảng 3: Kết quả đo các yếu tố hóa học và hơi khí độc

Nhận xét: Tại thời điểm đo, nồng độ các chất hoá học, hơi khí độc đo được tại các vị trí hầu hết đều nằm ở mức giới hạn cho phép ngoại trừ hàm lượng CO2 tại 10 vị trí cao hơn TCVSCP và nồng độ Formaldehyde (phòng nhuộm tế bào) cao hơn TCVSCP (theo QĐ số 3733/2002/QĐ-BYT).

1.4. Yếu tố vi sinh vật

Nhận xét: Tại các vị trí lấy mẫu vi sinh vật trong không khí môi trường lao động cho thấy: cos 91,6% (152/166 mẫu) vượt quá giới hạn khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) về chất lượng không khí bệnh viện.

2. Đặc điểm điều kiện lao động của nhân viên y tế

Điều kiện lao động của các NVYT khá đặc thù và có nhiều yếu tố công việc gây căng thẳng thần kinh tâm lý :

– Chế độ làm việc tại hầu hết các khoa phòng theo giờ hành chính. Tuy vậy, để đáp ứng được yêu cầu công việc đặc thù như ở chuyên ngành huyết học, thời gian làm việc của nhân viên y tế tại một số khoa phòng không ổn định do không chủ động được khối lượng mẫu (như khoa Xét nghiệm sàng lọc máu, khoa Điều chế các chế phẩm máu…) hoặc phải đi sớm, về muộn khi làm việc tại cộng đồng (Khoa hiến máu; vận động và tổ chức hiến máu…).

– Công việc của các NVYT có nguy cơ cao lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu (Viêm gan B, Viêm gan C, HIV…) do hầu hết các nhân viên phải tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của bệnh nhân (nhất là khi chưa có kết quả xét nghiệm) như Khoa Khám bệnh và điều trị ngoại trú và cấp cứu, Khoa hiến máu, Khoa Xét nghiệm sàng lọc máu;…; tiếp xúc với các Virus lây bệnh tối nguy hiểm (Virus HBV, HCV, CMV, EBV) (Khoa di truyền và sinh học phân tử).

– Đối với các NVYT chuyên ngành huyết học còn phải tiếp xúc với nhiều hóa chất (Bleomycin, Cisplastin, Cisplastin, Cyclophosphamid, ArsenicTroxid, Cytarabin, Daunorubicin, Etoposide, L-Asparaginase erwinase, Fludarabin, Ifosfamid, L-Asparaginase, Melphalan, Busulfan, Methotrexate, Rituximab, Mitoxantrone,Vinblastin…) trong quá trình pha chế thuốc (Khoa Dược); trong quá trình điều trị cho bệnh nhân (các khoa Khối lâm sàng); tiếp xúc xylen, Toluen, cồn etylic, formaldehyt, benzene… trong quá trình sinh thiết tủy xương, cắt nhuộm (Khoa Tế bào tổ chức học); tiếp xúc với javen, các chất tẩy (Khoa chống nhiễm khuẩn).

– Các NVYT chuyên ngành tâm thần thường xuyên phải tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần có yếu tố phạm tội (đối với giám định pháp y tâm thần); không có khả năng kiểm soát năng lực, hành vi nên có thể bị tấn công, xâm hại bất cứ khi nào và có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của nhân viên (tính chất nguy hiểm) – yếu tố đặc thù của nhân viên y tế chuyên ngành tâm thần.

– Các NVYT chuyên ngành HIV/AIDS tuy thực hiện các chức trách, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có chung một điểm là phải trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp xúc với bệnh nhân HIV/AIDS thường kèm theo nhiều bệnh khác (như nhiễm khuẩn hô hấp, lao, viêm gan B, C,…);tiếp xúc với bệnh phẩm như phân, đờm, mủ, máu, nước tiểu… của bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS; tiếp xúc với các vi sinh vật… nên nguy cơ bị lây nhiễm cao và phải chịu áp lực lớn từ sự kỳ thị của cộng đồng, xã hội

– Các NVYT còn phải trực đêm, trung bình 1-2 buổi/tuần; sau ca trực các NVYT còn phải tiếp tục giành thời gian phải giải quyết các công việc liên quan.

– Yêu cầu mức độ trách nhiệm rất cao của NVYT trong công việc; đòi hỏi tính chính xác tuyệt đối, không cho phép sai sót (do gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tính mạng con người) cũng là một trong những đặc điểm lao động đặc thù trong ngành y.

V. BÀN LUẬN

Điều kiện lao động của các NVYT trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có những nguy cơ tương tự như nhiều nghiên cứu khác.

Nhiễm HBV là rủi ro nghề nghiệp cho NVYT. Một nghiên cứu của Quddus M [6] đánh giá tình trạng tiêm chủng viêm gan B của nhóm có nguy cơ cao và thái độ kiến ​​thức và thực hành về cách ly cơ thể. 400 NVYT gồm 55% nam và 45% nữ, 100 người cho mỗi nhóm bao gồm: bác sĩ, y tá, nhân viên phòng mổ và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm làm việc tại Karachi Pakistan. 28% các bác sĩ, 20% y tá, 64% nhân viên phòng mổ và 68% kỹ thuật viên phòng thí nghiệm được tiêm chủng đầy đủ. Trong số còn lại 31% là không biết về vắc xin, 45% không cho rằng mình trong nhóm nguy cơ cao, 15% thấy có thể tiêm chủng, 9% cho rằng tốn kém. Thực hành an toàn sinh học đã được thực hiện một cách chính xác là 42%. 29% thực hiện tiêm an toàn, 10% đảm bảo quy tắc vô trùng và 19% thiết bị tiệt trùng đúng cách. Khi tràn máu ngay lập tức được làm sạch là 80%, trong số đó 48% được áp dụng chất khử trùng, 40% làm sạch bằng nước và chất tẩy rửa, 12% làm sạch và khử trùng. Các mẫu máu xử lý là 52% trong hộp đựng có sẵn, 17% trong thùng rác và 30% trong các túi nguy cơ sinh học. Trong 62 trường hợp vô tình tiếp xúc với  máu, các biện pháp xử lý bao gồm: 19% sử dụng rượu, 11% rửa bằng nước, 8% chờ đợi sự giúp đỡ y tế.

Shoaei P [7] nghiên cứu tỷ lệ hiện nhiễm của virus viêm gan B và tình trạng kháng thể bề mặt viêm gan B trong NVYT phòng thí nghiệm ở Isfahan, Iran. Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 203 người thuộc các phòng xét nghiệm được điều tra và xét nghiệm miễn dịch liên kết enzyme (ELISA) về mức độ kháng nguyên và kháng thể. Kết quả cho thấy: tất cả các đối tượng đều âm tính với nhiễm HBV. 47 (23,2%) là không miễn dịch, 126 (62,0%) là tương đối miễn dịch, và 30 (14,8%) là cao miễn dịch. Như vậy, viêm gan B là không thường xuyên trong NVYT phòng thí nghiệm ở Isfahan.

Perez-Diaz C[5] phân tích cắt ngang trên NVYT tiếp xúc nghề nghiệp với máu tại cơ quan bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp từ năm 2009 và 2014 tại Colombia và được đánh giá giữa các nhóm theo mức độ phơi nhiễm (nhẹ, trung bình và nặng). Trong số 2403 báo cáo được phân loại: phơi nhiễm là nhẹ 2,7%; trung bình 74,8%; nặng 21,9%.

Mệt mỏi ở y tá liên quan rõ rệt tới thời gian làm việc khi thay đổi từ 8h làm việc và 12h làm việc/ca [4]. Ở các khoa điều trị nội trú, nghiên cứu trên các bác sỹ tập sự cho thấy: mối liên quan giữa căng thẳng tại nơi làm việc và chất lượng giấc ngủ kém [9]. Sự cần thiết phải có các chính sách bổ sung, quy định và chuẩn bị phù hợp cho các y tá khi thay đổi môi trường lao động, thay đổi công việc như chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV… [8].

VI. KẾT LUẬN

– Môi trường lao động của NVYT tại hầu hết các khoa/phòng đều nằm trong giới hạn cho phép ngoại trừ tại một số ít vị trí đo có nhiệt độ, hàm lượng khí CO2, Formaldehyt và yếu tố vi sinh vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TTCP).

– Cường độ làm việc cao; thời gian làm việc kéo dài, không ổn định; phải trực đêm, trách nhiệm công việc lớn; tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của bệnh nhân; tiếp xúc với nhiều loại hóa chất có hại trong quá trình pha chế thuốc, làm xét nghiệm, điều trị cho bệnh nhân; nguy cơ cao lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường máu (Viêm gan B, Viêm gan C, HIV…); nguy cơ bị hành hung, tấn công từ các bệnh nhân tâm thần…  là các yếu tố đặc thù nghề nghiệp của NVYT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Brandenburg, S. (2003) Overview of the activities of the health service sector. Book Abstract of 27th ICOH in Brazil. SPS 24.2.    

2. Eickmann, U. (2003). Chemical risks to health care workers. Book Abstract of 27th ICOH in Brazil. SPS 24.4.

3. Elizabeth Dougherty et al (2009), “Factors associated with stress and professional satisfaction in oncology staff”, American Journal of Hospice & Palliative Medicine, 26(2), pp. 105-111.

4. Marrtin DM (2015), “Nurse Fatigue and Shift Length: A Pilot Study”, Nurs Econ 2015 Mar-Apr;33(2):81-7.

5. Pérez-Diaz C, Calixto Ọ, Faccini-Martinez AA et al (2015), “Occupational exposure to blood borne pathogens among healthcare workers: a cross-sectional study of a registry in Colombia”, J Occup Med Toxicol. 2015 Dec 16;10:45.

6. Quddus M, Jehan M, Ali NH (2015), “ hepatitis-B vaccination status and knowledge, attitude and practice of high risk Health Care Worker about body substance isolation”, J Ayub Med Coll Abbottabad.  2015 Jul-Sep;27(3):664-8.

7. Shoaei P, Najafi S, Lotfi N  et al (2015), “Seroprevalence of hepatitis B virus infection and hepatitis B surface antibody status among laboratory health care workers in Isfahan, Iran”, Asian J Transfus Sci.  2015 Jul-Dec;9(2):138-40.

8. Spies LA, Gray J, Opollo J (2015), “HIV and Nurses: A Focus Group on Task Shifting in Uganda”, J Assoc Nurses AIDS Care. 2015 Dec 29. pii: S1055-3290(15)00291-5.

9. Stucky ER, Dresselhaus TR, Dollarhide A et al  (2009), “Intern to attending: assessing stress among physicians”, Acad Med.  2009 Feb;84(2):251-7.

Nguyễn Thu Hà, Trần Văn Đại,

Nguyễn Thị Bích Liên, Nguyễn Thị Thắm

                                      Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường


(Nguồn tin: Nilp.vn)