Công cụ đánh giá rủi ro an toàn lao động trong thi công xây dựng nhà cao tầng
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như quá trình hội nhập quốc tế, công tác An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đã và đang đặt ra những yêu cầu đổi mới cả về lượng và chất. Một trong những vấn đề đó là công tác nhận diện nguy cơ và đánh giá rủi ro về ATVSLĐ cũng được đặt ra với vai trò hết sức quan trọng trong việc phát hiện và có những hành động khắc phục sớm những nguy cơ mất an toàn ngay từ ban đầu nhằm giảm thiểu những sự cố, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trong bài báo này đề cập đến việc xây dựng công cụ đánh giá rủi ro ATVSLĐ trong thi công xây dựng nhà cao tầng, đây cũng chính là đối tượng điển hình có nguy cơ rất cao về các sự cố, tai nạn lao động.
MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi đất nước bước vào thời kì Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH), hội nhập quốc tế, việc đẩy mạnh xây dựng các nhà máy công nghiệp cũng như các công trình tổ hợp, các công trình dân dụng có xu hướng gia tăng, đa dạng về số lượng và chủng loại. Việc triển khai thi công các công trình xây dựng như các khu đô thị mới, khu cao ốc, văn phòng, các công trình cầu, đường, các nhà máy và công xưởng với sự tham gia của rất nhiều nhà thầu, thu hút một lực lượng lao động dồi dào trong nước và quốc tế. Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế nói chung và ngành xây dựng nói riêng, chúng ta cũng nhận thấy những tác động, hệ lụy của sự phát triển như các vấn đề xã hội, ô nhiễm, giao thông, tai nạn lao động, …
Tại Việt Nam, theo thống kê thì ngành xảy ra nhiều tai nạn lao động nghiêm trọng nhất trong những năm qua chính là ngành xây dựng, xây lắp công trình dân dụng và công nghiệp, chiếm khoảng 30% số vụ TNLĐ chết người và cũng từng ấy số nạn nhân tử vong. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu và áp dụng được những hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động một cách hiệu quả mà nội dung chính, chủ yếu đó là việc nhận diện, đánh giá nguy cơ gây tai nạn trong sản xuất.
Trong thời gian vài thập kỷ gần đây, giới khoa học và các nhà quản lý An toàn vệ sinh lao động tập trung nhiều vào việc nhận dạng các mối nguy cũng như khả năng tác động của nó đưa tới an toàn và sức khỏe tại nơi làm việc của người lao động nhằm tìm giải pháp phòng ngừa các tai nạn lao động, bệnh tật cho người lao động. Tại những nước như Hoa Kỳ, Canada, EU, Úc, … đã có nhiều hoạt động cụ thể liên quan bao gồm: đưa ra các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý ATVSLĐ, các hướng dẫn nhận dạng, phân tích, đánh giá và kiểm soát các mối nguy tại nơi làm việc. Nội dung quan trọng và xuyên suốt của hệ thống quản lý ATVSLĐ là đánh giá và kiểm soát các nguy cơ xuất hiện trong hoạt động của cơ sở. Các mối nguy đôi khi có thể xuất phát từ một nguyên nhân, tuy nhiên tùy theo từng hoàn cảnh, điều kiện mà có những hậu quả hoặc tác động khác nhau. Vì vậy mỗi một hoạt động đặc thù đều có một cách áp dụng: nhận dạng, đánh giá, phân tích và giải pháp riêng cho mỗi một mối nguy. Vấn đề này đặt ra cho các nhà quản lý ATVSLĐ một thách thức rất lớn khi thực hiện công tác quản lý ATVSLĐ. Để đánh giá chính xác được mức độ tác động và xác suất xuất hiện của mỗi một mối nguy, qua đó xác định được mức nguy cơ và đưa ra hành động phòng ngừa phù hợp, bước đầu tiên mà người quản lý ATVSLĐ và cả người lao động cần làm là phải nhận diện được chính xác mối nguy, biết cách mô tả phù hợp để qua đó đánh giá được mức rủi ro có thể của mối nguy đó. Để thực hiện tốt khâu này, phải lựa chọn đúng phương pháp áp dụng căn cứ vào trường hợp cụ thể. Sau khi nhận diện được yếu tố nguy hiểm, người ta tiến hành khảo sát, thu thập, ghi nhận tất cả các dấu hiệu, biểu hiện và thông tin liên quan tới mối nguy cụ thể đã được nhận dạng. Các thông tin càng cụ thể, chính xác, có thể lượng hóa được thì càng tốt. Căn cứ vào tất cả các dữ liệu có được, các chuyên gia sẽ đánh giá mức độ nguy cơ của mối nguy và qua đó đưa ra các giải pháp, hành động khắc phục chuẩn xác nhất.
Với việc xây dựng “Bộ công cụ đánh giá và đề xuất giải pháp kiểm soát nguy cơ tai nạn lao động trong thi công xây dựng nhà cao tầng” sẽ góp phần ổn định sản xuát, phát triển bền vững cho doanh nghiệp, cũng như cho công tác an toàn lao động nhằm hạn chế những tổn thất về người, tài sản do tai nạn lao động gây ra.
I. CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ RỦI RO ATLĐ TRONG THI CÔNG XÂY DỰNG NHÀ CAO TẦNG
1.1. Khái quát đặc thù trong thi công xây dựng nhà cao tầng
Công tác thi công xây dựng nhà cao tầng ở Việt Nam đã có nhiều đổi mới, những công nghệ hiện đại cũng đang từng bước được áp dụng. Đặc thù của công nghệ xây dựng nhà cao tầng có những yêu cầu khác biệt, đòi hỏi phải giải quyết được các khó khăn trong thi công xây dựng, cụ thể như:
– Cao trình vận chuyển thẳng đứng lớn;
– Kết cấu và xây lắp phần lớn được tiến hành song song, tiến hành thi công xen kẽ, lượng vận chuyển cẩu lắp rất lớn;
– Quy cách, số lượng vật liệu xây dựng, chế phẩm và thiết bị nhiều, có yêu cầu phức tạp;
– Công nhân làm việc lên, xuống các tầng nhiều, lượng công nhân đi lại rất lớn;
– Thời gian thi công gấp, vận chuyển lưu thông dày đặc, tổ chức làm việc phức tạp, nặng nề;
– Vấn đề an toàn, vệ sinh lao động luôn đặt lên hàng đầu.
Đối với công nghệ thi công xây dựng nhà cao tầng chủ yếu được thực hiện dựa trên quy trình sau: [2]
– Khảo sát, chọn địa điểm xây dựng
– Thiết kế, lựa chọn phương án
– Chuẩn bị vật tư, máy móc
– Thi công móng, cọc, hầm
– Thi công phần thân
– Xây và hoàn thiện
Trong các bước khảo sát, chọn địa điểm xây dựng; thiết kế, lựa chọn phương án là những bước khởi đầu của dự án, trong bước này sẽ đưa ra đầy đủ các phương án khả thi thể thực hiện bao gồm: phương án lựa chọn công nghệ thi công, phương tiện thi công, phương án đảm bảo an toàn, …
Bên cạnh đó việc lựa chọn công nghệ thi công, đặc biệt là thiết bị, phương tiện thi công là hết sức quan trọng. Các thiết bị này có thể kể đến một số chủng loại sau:
– Máy vận chuyển thẳng đứng và cẩu lắp kết cấu, trong đó bao gồm: máy cần cẩu tháp, máy giá giếng, giá tháp vận chuyển thẳng đứng, máy nâng cáp trượt, …
– Cơ giới bơm đẩy bê tông, trong đó bao gồm: xe vận chuyển và trộn bê tông, máy bơm bê tông cùng ôtô chờ bơm và cần rải bê tông, …
– Máy móc vận chuyển nhân viên bao gồm: cầu thang máy thi công, máy nâng hạ chở người và hàng hóa, …
– Các loại bình đài và thang cao dùng cho thi công công trình trang trí, lắp ráp thiết bị cơ điện và các ống thông gió, …
– Giàn giáo thường và các loại giàn giáo treo.
– Thiết bị cơ giới khác như: máy đào, đóng ép cọc, nhổ cọc, ép cừ, máy làm sắt, …
– Thiết bị cầm tay như: máy khoan, máy mài, búa hơi, máy đầm, rùi, …
Qua đó, có thể thấy rõ trong quá trình thi công xây dựng nhà cao tầng có những nguy cơ cơ bản điển hình mất an toàn lao động có thể được kể đến như sau: Nguy cơ ngã cao; nguy cơ trơn, trượt; nguy cơ tai nạn về điện; nguy cơ bị chấn thương do tiếp xúc với máy, thiết bị; nguy cơ do bị vật rơi, sập đổ; nguy cơ do vật văng bắn; nguy cơ do nhiệt; …. về cơ bản có thể thấy rõ các nguy cơ này có thể tồn tại độc lập hoặc cùng tồn tại song song trong từng công đoạn sản xuất, thi công. Thông qua việc nhận dạng chính xác, đầy đủ các mối nguy của từng trường hợp cụ thể sẽ có những giải pháp giảm thiểu các nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được để hạn chế các chấn thương gây tai nạn trong hoạt động sản xuất.
1.2. Khái quát phương pháp đánh giá rủi ro
Định nghĩa trong tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam TCVN/ISO/IEC Guide 51, Rủi ro (risk) là “sự kết hợp giữa khả năng có thể xẩy ra tổn hại (harm) và sự thiệt hại do tổn hại đó gây nên”. Như vậy kiểm soát rủi ro trong sản xuất là kiểm soát khả năng có thể xẩy ra tổn hại và kiểm soát tổn thất do tổn hại gây ra. Tổn thất có thể là tổn thương đến cơ thể, thiệt hại cho sức khỏe con người, thiệt hại về tài sản, môi trường, …
Do những điều kiện nhất định, sẽ chỉ đề cập đến một trong các khía cạnh của những hoạt động kiểm soát rủi ro. Nói một cách tổng quát, khả năng xẩy ra tổn hại và gây ra tổn thất cho sức khỏe con người, thiệt hại tài sản và môi trường (rủi ro) là do các khâu chính sau đây:
– Thiết kế sản phẩm, quá trình sản xuất đã không loại bỏ hết rủi ro (rủi ro tồn đọng sau thiết kế);
– Rủi ro còn lại sau khi đã áp dụng các kỹ thuật an toàn, phương tiện bảo hộ;
– Vận hành quá trình sản xuất không đúng các quy định.
Theo tài liệu của tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO, an toàn (safety) là “sự không có những rủi ro không thể chấp nhận”, là sự cân bằng giữa không có rủi ro và các yêu cầu mà một quá trình sản xuất cần phải phù hợp của doanh nghiệp và xã hội bằng lòng chấp nhận. Do đó, cần thiết phải giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất đến mức có thể chấp nhận được.
Điều này cho thấy là không thể có an toàn tuyệt đối nếu quan niệm “an toàn” là không có rủi ro, mà tùy thuộc vào điều kiện công nghệ, kinh tế – xã hội, môi trường, sức khỏe người lao động, … Theo tinh thần đó, doanh nghiệp, xã hội sẽ đánh giá một quá trình sản xuất về mặt an toàn đến mức độ nào thông qua hai phương thức:
– Ứớc tính độ rủi ro: là tiến hành tính xác suất nguy hại thông qua phân định ra các đặc tính liên quan đến an toàn và định lượng chúng. Họat động này mang tính hoạt động nghiên cứu khoa học;
– Xét đoán tính an toàn: là đánh giá mức độ chấp nhận được của các rủi ro. Hoạt động này mang tính chính sách – pháp qui gắn liền với các hoạt động sản xuất, quản lý và được coi là quan trọng nhất trong công tác tiêu chuẩn hóa về an toàn. Để xét đoán tính an toàn của quá trình sản xuất theo một cách thức thống nhất trong một nước và có thể so sánh và hội nhập được với các nước trong khu vực hay quốc tế, điều chủ yếu là phải phân định ra các đặc tính liên quan đến an toàn và đưa các yêu cầu an toàn cụ thể.
Theo hướng dẫn của Ngân hàng thế giới (WB) và Tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) về Môi trường, Sức khỏe và An toàn, các giải pháp kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và bảo vệ người lao động được giới thiệu theo thứ tự ưu tiên Loại trừ – Kiểm soát – Giảm thiểu – Sử dụng phương tiện bảo hộ lao động như sau:
– Loại trừ mối nguy bằng cách loại bỏ hoạt động có thể tạo ra rủi ro từ quá trình làm việc, ví dụ sử dụng vật liệu thay thế, thay thế các hóa chất ít độc hại hơn, sử dụng quá trình sản xuất khác ít rủi ro hơn, v.v.
– Kiểm soát mối nguy tại nguồn thông qua sử dụng các biện pháp kiểm soát kỹ thuật. Ví dụ như áp dụng thông gió cục bộ, cách ly, bao che máy móc, vật liệu cách nhiệt,cách điện, v.v.
– Giảm thiểu mối nguy thông qua thiết kế hệ thống làm việc an toàn và các biện pháp kiểm soát mang tính thể chế và hành chính. Ví dụ thực hiện luân phiên công việc, đào tạo qui trình làm việc an toàn, phổ biến thông tin đầy đủ, giám sát nơi làm việc, giới hạn mức phơi nhiễm, mức tiếp xúc hoặc mức tác động hoặc thời gian làm việc, v.v.
– Cung cấp các phương tiện bảo vệ cá nhân phù hợp kết hợp với đào tạo sử dụng và bảo dưỡng chúng.
Việc áp dụng các giải pháp kiểm soát và phòng ngừa rủi ro được dựa trên an toàn công việc toàn diện hoặc phân tích mối nguy trong công việc. Kết quả của những phân tích này được ưu tiên như là một phần của kế hoạch hành động về an toàn trong kế hoạch sản xuất tổng thể. Kế hoạch hành động về an toàn này được thiết lập dựa theo rủi ro (khả năng xẩy ra) và mức độ trầm trọng của hậu quả do bị tiếp xúc (phơi nhiễm) với các mối nguy đã xác định.
Với những khái niệm đó có thể thấy việc đánh giá rủi ro ATVSLĐ được thực hiện là một quá trình liên tục và được thực hiện theo sơ đồ …
Theo sơ đồ trên, chúng ta có thể thấy rõ việc nhận diện mối nguy là hết sức quan trọng và là yếu tố quyết định cho toàn bộ quá trình đánh giá rủi ro. Các phương pháp hoặc công cụ có hiệu quả nhất là các phương pháp hoặc công cụ có cấu trúc để đảm bảo tất cả các giai đoạn của công việc được kiểm tra xem xét kỹ lưỡng. Thông thường, theo một trong hai phương pháp được mô tả dưới đây (xem Hình 2): Phương pháp từ trên xuống và phương pháp từ dưới lên:
Trong quá trình nhận diện mối nguy. Bất kỳ phương pháp nào cũng cần thiết phải ghi các nội dung mô tả sau:
– Mối nguy hiểm và vị trí của nó (vùng nguy hiểm);
– Mình trạng nguy hiểm, chỉ thị những loại người khác nhau (như nhân viên bảo dưỡng, người vận hành, người đi qua) và các công việc hoặc hoạt động mà họ phải thực hiện khi phơi ra trước mối nguy hiểm;
– Tình trạng nguy hiểm có thể dẫn đến tổn hại do kết quả của một sự kiện nguy hiểm hoặc phơi ra trước nguy hiểm trong thời gian dài như thế nào.
Đôi khi, ở giai đoạn này của quy trình đánh giá rủi ro cũng có thể dự tính trước và ghi lại các thông tin sau:
– Tính chất và sự nghiêm trọng của tổn hại (các hậu quả) trong máy – tổn hại riêng (ví dụ, các ngón tay bị đè nát do hành trình đi xuống của máy ép khi điều chỉnh chi tiết gia công) nhiều hơn là các tổn hại chung (ví dụ nghiền nát người);
– Có các biện pháp bảo vệ và hiệu quả của chúng.
Bước quan trọng thứ hai, đó là việc dự đoán và đánh giá rủi ro. Trong giai đoạn này, hai yếu tố chính của rủi ro là sự nghiêm trọng của tổn hại và xác suất xảy ra sự nghiêm trọng của tổn hại. Mục đích của sự dự đoán rủi ro là xác định rủi ro cao nhất nảy sinh từ mỗi tình trạng nguy hiểm hoặc viễn cảnh của tai nạn. Rủi ro được dự đoán thường được biểu thị là một mức, một chỉ số hoặc số điểm.
Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy rõ tất cả các phương pháp đánh giá rủi ro đều xem xét đến khả năng xảy ra của các tổn hại bằng cách xem xét các khía cạnh sau:
– Con người bị phơi ra trước mối nguy hiểm,
– Khả năng xảy ra sự kiện nguy hiểm, và
– Các khả năng của kỹ thuật và con người để tránh hoặc hạn chế tổn hại.
Khi xem xét đến khả năng xẩy ra của tổn hại, chúng ta cần phải xem xét các điều kiện để xẩy ra tổn hại theo sơ sơ đồ sau:
Có nhiều phương pháp khác nhau để dự đoán rủi ro, từ phương pháp đơn giản, định tính đến phương pháp chi tiết, có tính định lượng. Để hỗ trợ cho quá trình dự đoán rủi ro, có thể lựa chọn và sử dụng một công cụ dự đoán rủi ro. Hầu hết các công cụ dự đoán rủi ro sẵn có đều sử dụng một trong các phương pháp sau:
– Ma trận rủi ro;
– Sơ đồ rủi ro;
– Cho điểm rủi ro;
– Dự đoán số lượng rủi ro.
Cũng có các công cụ hỗn hợp sử dụng sự kết hợp các phương pháp.
Sự lựa chọn công cụ dự đoán rủi ro riêng ít quan trọng hơn bản thân quá trình dự đoán rủi ro. Lợi ích của đánh giá rủi ro đạt được bởi quy tắc của quá trình hơn là độ chính xác tuyệt đối của các kết quả miễn là cần quan tâm đầy đủ đến tất cả các yếu tố rủi ro. Hơn nữa, cần hướng vào các cố gắng làm giảm rủi ro hơn là mong muốn đạt được độ chính xác tuyệt đối trong dự đoán rủi ro.
Bất cứ công cụ dự đoán rủi ro nào, dù là định tính hay định lượng cũng nên xử lý ít nhất là hai thông số mô tả các yếu tố rủi ro. Một trong các thông số này là sự nghiêm trọng của tổn hại; thông qua sự liên quan đến một số công cụ, thông số này có thể là tần suất của tổn hại hoặc được xem xét. Thông số kia là khả năng xảy ra tổn hại được xem xét.
Một số công cụ hoặc phương pháp đã đưa vào các thông số hai yếu tố con người bị phơi ra trước mối nguy hiểm và khả năng xảy ra sự kiện nguy hiểm và khả năng của cá nhân để tránh hoặc hạn chế tổn hại.
Với công cụ dự đoán rủi ro riêng cần chọn loại công cụ cho mỗi thông số để phù hợp nhất với tình trạng nguy hiểm/sự kiện nguy hiểm (nghĩa là viễn cảnh tai nạn). Sau đó các loại được lựa chọn kết hợp lại khi sử dụng phép toán số học đơn giản, các bảng, các biểu đồ hoặc giản đồ để dự đoán rủi ro.
Các công cụ định lượng được sử dụng để dự đoán tần suất (nghĩa là số lần trong năm) hoặc khả năng (trong một khoảng thời gian quy định) xảy ra sự nghiêm trọng riêng của tổn hại.
Thông thường, người thiết kế chỉ có thể xác định rằng rủi ro đã được giảm đi tới mức có thể thực hiện được hoặc mục tiêu của việc giảm rủi ro đã đạt được.
1.3. Ứng dụng phương pháp đánh giá rủi ro ATLĐ
Căn cứ vào các ưu nhược điểm của các phương pháp đánh giá rủi ro ATLĐ, cũng như đặc thù của quá trình hoạt động sản xuất thi công nhà cao tầng tại Việt Nam, bài báo ứng dụng phương pháp đánh giá kết hợp giữa dạng ma trận và cho điểm [7, 10] và được thể hiện qua bảng sau:
Mối nguy hiểm
Mô tả sự nguy hiểm. Số loại nhận dạng loại hoặc nhóm mối nguy hiểm, chỉ ra nguồn gốc của loại hoặc nhóm mối nguy hiểm. Ví dụ, nếu mối nguy hiểm là một mối nguy hiểm bị đè bẹp thì sẽ được chỉ thị bởi số “1” trong cột số loại và “đè bẹp” trong cột mối nguy hiểm.
Cùng một mối nguy hiểm có thể yêu cầu một số sự dự đoán do các tình trạng nguy hiểm và sự kiện nguy hiểm khác nhau.
Sự nghiêm trọng, Se
Se là sự nghiêm trọng của tổn hại có thể xảy ra, là hậu quả của mối nguy hiểm đã nhận dạng. Sự nghiêm trọng được cho điểm như sau:
- Không đáng kể
- Nhẹ: các vết xước, vết thâm tím được chữa khỏi trong lần cứu chữa đầu tiên hoặc các thương tích tương tự; (hoặc là những tai nạn lao động nhẹ được phân loại theo phụ lục 02 – Nghị định số 39/2012/NĐ-CP, ngày 15/5/2016)
- Trung bình: các vết xước, vết thâm tím nghiêm trọng hơn, vết đâm cần có sự chăm sóc y tế của thầy thuốc lành nghề, có kinh nghiệm; (hoặc là những chấn thương đuợc phân loại theo phụ lục 02 – Nghị định số 39/2012/NĐ-CP, ngày 15/5/2016; các chấn thương có thể phục hồi hoàn toàn hoặc một phần, tỷ lệ mất sức lao động nhỏ hơn 30%)
- Cao: thương tích thường không chữa khỏi được, ở dạng thương tật vĩnh viễn; (hoặc là những chấn thương đuợc phân loại theo phụ lục 02 – Nghị định số 39/2012/NĐ-CP, ngày 15/5/2016; các chấn thương có thể phục hồi hoàn toàn hoặc một phần, tỷ lệ mất sức lao động lớn hơn 30%)
- Thảm khốc: thương tích không chữa khỏi được; mất khả năng nghe, nhìn thập chí là chết (hoặc là những chấn thương đuợc phân loại theo phụ lục 02 – Nghị định số 39/2012/NĐ-CP, ngày 15/5/2016; các chấn thương có thể phục hồi hoàn toàn hoặc một phần, tỷ lệ mất sức lao động từ 81%)
Tần suất, Fr
Fr là khoảng thời gian trung bình giữa tần suất phơi ra trước mối nguy hiểm và khoảng thời gian phơi. Tần suất được cho điểm như sau:
2 khoảng thời gian giữa các lần phơi ra lớn hơn một năm;
3 khoảng thời gian giữa các lần phơi ra lớn hơn hai tuần nhưng nhỏ hơn hoặc bằng một năm;
4 khoảng thời gian giữa các lần phơi ra lớn hơn một ngày nhưng nhỏ hơn hoặc bằng hai tuần;
5 khoảng thời gian giữa các lần phơi ra lớn hơn một giờ nhưng nhỏ hơn hoặc bằng một ngày.
Khi khoảng thời gian ngắn hơn 10 phút thì các giá trị trên có thể được giảm đi tới mức tiếp sau.
6 khoảng thời gian nhỏ hơn hoặc bằng một giờ. Giá trị này không được giảm đi tại bất cứ thời gian nào.
Xác suất, Pr
Pr là khả năng xảy ra một sự kiện nguy hiểm. Hãy xem xét, ví dụ, tập tính của con người, độ tin cậy của các bộ phận, lịch sử tai nạn và tính chất của bộ phận hoặc thiết bị (ví dụ, một con dao sẽ luôn luôn sắc, một đường ống trong môi trường ban ngày thì nóng, điện có bản chất là nguy hiểm) để xác định mức xác suất. Xác suất được cho điểm như sau:
- Không đáng kể: ví dụ loại bộ phận này không bao giờ hỏng để xảy ra sự kiện nguy hiểm. Không có khả năng sai sót của con người. (hoặc không thể có tai nạn xảy ra)
- Hiếm: ví dụ, loại bộ phận này không chắc sẽ bị hỏng để xảy ra sự kiện nguy hiểm. Sai sót của con người là không chắc có. (hoặc chưa từng có tai nạn nhưng có thể có tai nạn xảy ra)
- Có thể: ví dụ, loại bộ phận này có thể hỏng để xảy ra sự kiện nguy hiểm. Sai sót của con người là có thể có. (hoặc đã có ít nhất 1 tai nạn lao động xảy ra trong quá khứ)
- Rất có thể: ví dụ, loại bộ phận này rất có thể hỏng để xảy ra sự kiện nguy hiểm. Sai sót của con người là rất có thể có. (có tai nạn lao động thỉnh thoảng xảy ra)
- Rất cao: ví dụ, loại bộ phận này không được chế tạo cho ứng dụng này. Nó sẽ hỏng để xảy ra sự kiện nguy hiểm. Tập tính của con người làm cho khả năng sai sót là rất cao. (có tai nạn thường xuyên xảy ra)
Sự tránh được, Av
Av là khả năng tránh được hoặc hạn chế được tổn hại. Hãy xem xét, ví dụ máy được vận hành bởi người có kỹ năng hoặc không có kỹ năng, một tình trạng nguy hiểm có thể dẫn đến tổn hại nhanh như thế nào, và sự nhận biết mối nguy hiểm rủi ro bằng thông tin chung, quan sát trực tiếp hoặc thông qua các tín hiệu cảnh báo, để xác định mức tránh được. Khả năng tránh được cho điểm như sau:
- Rất có thể: ví dụ, rất có thể sẽ tránh được sự tiếp xúc với các bộ phận chuyển động đằng sau rào chắn được khóa liên động trong phần lớn các trường hợp khi khóa liên động bị hỏng và chuyển động vẫn tiếp tục.
- Có thể: ví dụ, có thể tránh được mối nguy hiểm do bị vướng mắc vào bộ phận máy khi vận tốc chậm.
- Không thể: ví dụ, không thể tránh được sự xuất hiện đột ngột của một chùm tia laser có công suất lớn hoặc một bộ phận máy có dòng điện chạy qua do cách điện bị hư hỏng.
Loại, Cl
Cl là bao gồm các yếu tố Fr, Pr và Av, là các yếu tố hợp thành tạo ra khả năng xảy ra tổn hại. Nên dự đoán mỗi yếu tố trong ba yếu tố một cách độc lập. Nên sử dụng giả thiết xấu nhất cho mỗi yếu tố. Fr, Pr và Av được cộng vào trong Cl. Cl là tổng của Fr, Pr và Av, nghĩa là Cl = Fr + Pr + Av.
Đánh giá mức rủi ro
Rủi ro được đánh giá mức bằng cách sử dụng ma trận, xem Bảng 1
Khi sự nghiêm trọng, Se, giao nhau với loại Cl trong vùng bôi đen thì phải có các biện pháp bảo vệ để giảm rủi ro.
Khi sự nghiêm trọng, Se, giao nhau với loại Cl trong vùng màu xám thì nên có các biện pháp bảo vệ để giảm rủi ro.
Khi sự nghiêm trọng, Se, giao nhau với loại Cl trong vùng còn lại thì rủi ro được giảm đi hoàn toàn.
II. CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ RỦI RO ATLĐ TRONG THI CÔNG XÂY DỰNG NHÀ CAO TẦNG
Hiện nay, công tác quản lý ATVSLĐ tại các cơ sở sản xuất nói chung và ở tại các công trường xây dựng nói riêng còn nhiều bất cập. Việc xây dựng được một phương pháp nhận dạng và đánh giá nguy cơ gây tai nạn lao động là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế để giảm bớt tính chất phức tạp, công sức trong công tác này đòi hỏi cần phải có những cách thức hiệu quả hơn nữa, chính vì thế nếu xây dựng được bộ công cụ đánh giá nguy cơ gây tai nạn sẽ giải quyết được những tồn tại đó. Đề tài đã tiến hành việc xây dựng phần mềm bộ công cụ đó sao cho đáp ứng phù hợp được những đòi hỏi của thực tế sản xuất, trình độ quản lý, …
Bộ công cụ đánh giá rủi ro ATLĐ được tin học hóa và được xây dựng gọn nhẹ, đảm bảo tính tương thích của hệ thống dựa trên việc chạy trên nền của hệ điều hành Windows với cấu hình phần cứng tốt ưu nhất có thể (tốc độ xử lý, bộ nhớ RAM, bộ nhớ ngoài, …). Phần mềm được xây dựng dựa trên ngôn ngữ lập trình Visual Studio và hệ quản trị cơ sở dữ liệu SQL Server của hãng Microsoft.
Phần mềm bộ công cụ đánh giá rủi ro được thiết kế bao gồm một số chức năng cơ bản sau:
– Quản trị người sử dụng: Phân quyền người sử dụng để đảm bảo tính toàn vẹn, chính xác của hệ thống;
– Cập nhật thông tin: Đảm bảo việc cập nhật đầy đủ các dữ liệu, thông tin một cách chính xác và nhanh chóng, thuận tiện cho việc lưu trữ và xử lý;
+ Dữ liệu về nguy cơ gây tai nạn lao động;
+ Dữ liệu về các giải pháp hạn chế nguy cơ gây tai nạn lao động;
+ Dữ liệu về hệ thống văn bản pháp luật, tiêu chuẩn có liên quan
– Phân tích đánh giá nguy cơ: Căn cứ vào số liệu các nguy cơ thu thập được từ việc nhận dạng, sẽ tiến hành phân tích đánh giá nguy cơ theo phương pháp đã chọn;
– Mô phỏng nguy cơ: Cho phép mô phỏng nguy cơ gây tai nạn lao động bằng cách thay đổi các tình hướng giả định để cho người sử dụng có phương án dự phòng cho phù hợp;
– Kết xuất và báo cáo kết quả: Việc kết xuất và báo cáo kết quả được thực hiện đảm bảo tính chính xác, có thể kết xuất ra dạng file mềm hoặc dạng bản in.
Sau đây, báo cáo sẽ giới thiệu một số chức năng cơ bản của phần mềm bộ công cụ đánh giá rủi ro ATLĐ.
Theo đó, khi kích vào nút lệnh sẽ thực hiện các chức năng tương ứng như sau:
- Mở module “Hệ thống Văn bản Tiêu chuẩn Quy phạm An toàn – Vệ sinh lao động”
- Mở module “Giải pháp An toàn – Vệ sinh lao động theo công nghệ và thiết bị”
- Mở module “Nhận diện nguy cơ, đánh giá rủi ro về An toàn lao động”
- Hiển thị mục trợ giúp
- Cấu hình chương trình (quản lý người sử dụng; cấu hình dữ liệu)
- Thanh công cụ
- Cây thư mục tài liệu
- Danh mục tài liệu trong thư mục hiện tại
- Nội dung tài liệu đang chọn
- Tìm và duyệt thư mục
II. KẾT LUẬN
Công tác an toàn lao động trong lĩnh vực xây dựng nói chung và trong thi công xây dựng nhà cao tầng nói riêng đang ngày càng trở thành vấn đề cấp bách của toàn xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng các giải pháp, công cụ quản lý vấn đề này còn nhiều hạn chế và bất cập. Chính vì vậy, Viện Khoa học An toàn và Vệ sinh lao động đã nghiên cứu và xây dựng bộ công cụ đánh giá nguy cơ gây tai nạn lao động trong thi công xây dựng nhà cao tầng nhằm giải quyết được những tồn tại này. Những kết quả được nghiên cứu thông qua việc lựa chọn phương pháp phù hợp với điều kiện thực tế tại các công trường xây dựng nhà cao tầng ở Việt Nam, đồng thời kết hợp với việc sử dụng công nghệ thông tin một cách linh hoạt chắc chắn sẽ đem lại những kết quả khả quan. Những kết quả nghiên cứu đó, chắc chắn sẽ góp phần vào công cuộc bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người lao động, góp phần ổn định và phát triển hoạt động sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hướng dẫn Hệ thống quản lý an toàn và vệ sinh lao động ILO – OSH 2001; NXB Lao động – Xã hội 2001;
- Nguyễn Xuân Trọng, Thi công nhà cao tầng – NXB Xây dựng – Hà Nội 2010;
- Luật An toàn, Vệ sinh lao động, 2015
- Nghị định số 39/2012/NĐ-CP, ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động;
- TCVN 6844: 2001: Hướng dẫn việc đề cập khía cạnh an toàn trong tiêu chuẩn;
- TCVN 7301 -1 : 2008: An toàn máy – Đánh giá rủi ro – Phần 1: Nguyên tắc
- TCVN 7301-2:2008: An toàn máy – Đánh giá rủi ro – Phần 2: Hướng dẫn thực hành và các ví dụ về các phương pháp
- TCVN 31000:2011: Quản lý rủi ro – Nguyên tắc và hướng dẫn
- TCVN 9788 : 2013: Quản lý rủi ro – Từ vựng
- TCVN ISO/TR 31010:2010: Quản lý rủi ro – Kỹ thuật đánh giá rủi ro
- TCVN ISO/TR 31004:2015: Quản lý rủi ro – Hướng dẫn áp dụng TCVN ISO 31000
- ISO 45001: 2018: Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp
- MsGraw, Safety risk analysis & process safety management, 2008
- MsGraw, Risk assessment and management, 2008
- Sarh Phoya,2012, Health and Safety Risk Management in Building Construction Site in Tanzania, The Practice of Risk Assessment, Communication and Control
Nguyễn Anh Tuấn1, Nguyễn Phương Hùng2,
Nguyễn Sỹ Khánh Linh1, Trần Văn Vang1
1. Viện KH An toàn và Vệ sinh lao động,
2. Viện Nghiên cứu Cơ khí
(Nguồn tin: Vnniosh.vn)