Thực trạng an toàn sử dụng máy, thiết bị trong sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long
TÓM TẮT
Để nghiên cứu, đánh giá thực trạng an toàn sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo tại 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), chúng tôi đã tiến hành điều tra ngẫu nhiên 662 hộ tại 13 tỉnh có sử dụng các loại máy móc thiết bị cơ điện trong sản xuất nông nghiệp với 1918 máy các loại để qua đó nhận được những thông tin cần thiết về người lao động, máy móc sử dụng chủ yếu, loại hình tai nạn thường gặp phải. Do tính đa dạng của máy móc và loại hình sản xuất nên trong phân tích chúng tôi chọn ra một số khâu cơ bản trong sản xuất nông nghiệp và máy móc chính phục vụ cho loại hình sản xuất này- máy móc phục vụ cho khâu làm đất, khâu chăm sóc và khâu thu hoạch và sơ chế sản phẩm.
Với các dạng tai nạn thể hiện trong điều tra thu thập số liệu, chúng tôi xem xét những khiếm khuyết trong công tác ATLĐ từ các yếu tố khác nhau về chính sách, văn bản quy định có tính pháp lý về quản lý, tổ chức cũng như về kỹ thuật kỹ thuật từ trung ương đến cơ sở; về máy móc, thiết bị và con người để bước đầu có thể đề xuất một chương trình quản lý, kiểm soát ATLĐ trong lĩnh vực nầy tại vùng đồng bằng sông Cửu long, góp phần vào việc xây dựng những giải pháp toàn diện cho công tác AT-VSLĐ trong lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp việt nam những năm tiếp theo.
Đề tài đã phân tích các yếu tố liên quan đến công tác quản lý, tổ chức, triển khai thực hiện; các yếu tố kỹ thuật đối với máy móc thiết bị và những yếu tố liên quan đến người lao động dẫn đến thực trạng mất an toàn lao động trong sản xuất.
Để đóng góp thiết thực vào việc thực hiện đồng bộ các giải pháp về ATLĐ trong sản xuất lúa gạo nói riêng và nông nghiệp nói chung, chúng tôi đề xuất xây dựng chương trình quản lý và kiểm soát ATLĐ chung cho vùng ĐBSCL trên cơ sở chính sách của Nhà nước về CGH nông nghiệp và Chương trình quốc gia về AT-VSLĐ để từng bước đưa công tác này vào khuôn khổ của chương trình phát triển bền vững của đất nước.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sử dụng máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất lúa gạo, một con số đáng lo ngại đó là nông dân sử dụng các loại máy móc phục vụ trong sản xuất từ khâu làm đất, chăm sóc, thu hoạch đến sơ chế…gần như chưa qua một trường lớp nào nhưng họ vẫn phải sử dụng chúng hàng ngày. Một số thiết bị được nhập khẩu từ các nước tiên tiến như Nhật, Pháp, còn lại phần lớn các loại máy móc như: máy cày, bừa, xới, máy gặt, máy tuốt lúa máy bơm, máy xay xát…được sản xuất trong nước nhưng con số hợp chuẩn, hợp quy về an toàn chưa nhiều. Chưa kể một số máy tự chế khác để đáp ứng yêu cầu sản xuất đều không có sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, nhiều thiết bị thiếu kết cấu an toàn cơ bản. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây nên các vụ tai nạn trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua.
Báo cáo từ Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội, TNLĐ trong nông nghiệp chiếm 5% số TNLĐ trong nước, với 5,5% số vụ tai nạn chết người [1] và tần suất tai nạn thương tích (không tử vong) khoảng 0,024 [2]. So sánh nguy cơ tai nạn thương tích trong các ngành nghề khác, lao động nông nghiệp là ngành có nguy cơ tai nạn thương tích đứng sau ngành xây dựng và khai khoáng [3] và đây là thực trạng đang rất cần được quan tâm.
Một thực tế nữa là hầu hết nông dân hiện nay đều hổng kiến thức, kỹ năng sử dụng máy nông nghiệp, mặc dù Hội Nông dân, Trung tâm Khuyến nông ở các tỉnh đã có những nỗ lực nhất định trong công tác tuyên truyền, huấn luyện về ATLĐ cho nông dân nhưng kết quả theo các báo cáo vẫn còn quá khiêm tốn. Chủ yếu người lao động vận hành máy móc, thiết bị theo kiểu “nghề dạy nghề”, vì thế việc xảy ra các tai nạn là khó tránh khỏi. Bên cạnh đó, đối tượng này cũng rất tản mạn, công việc làm không cố định, thời gian làm không thường xuyên, do vậy loại hình lao động này trong nông nghiệp khó có điều kiện tập huấn về kỹ năng về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong sản xuất .
Cũng như các ngành nghề khác, đảm bảo ATLĐ cho NLĐ nông nghiệp hết sức quan trọng, vì vậy thúc đẩy việc thực hiện công tác AT, VSLĐ trong nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn. Bản chất của công việc tuy không phức tạp nhưng lại dàn trải và đối tượng tác động là những nông dân, họ chưa có quan hệ lao động, chưa có một cơ chế quản lý hợp lý do đó không thể khẳng định là sẽ cải thiện công việc này trong một hạn định nào đó nhưng thiết nghĩ cần có sự quan tâm đúng mức của cơ quan quản lý Nhà nước ở các cấp, tổ chức chuyên môn, cơ quan, ban, ngành chức năng từ trung ương đến địa phương với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo ATLĐ trong quá trình lao động, sản xuất của lĩnh vực này.
II. MỤC TIÊU, NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
– Xây dựng được cơ sở dữ liệu về tình hình an toàn lao động trong sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo.
– Đề xuất được chương trình quản lý, kiểm soát an toàn lao động trong sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu long.
2.2. Nội dung nghiên cứu
– Điều tra thống kê tình hình sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long
– Điều tra đánh giá tình hình an toàn lao động, tai nạn lao động trong sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ưu tiên điều tra, thống kê đối với một số máy, thiết bị cơ giới hóa điển hình, sử dụng phổ biến trong sản xuất lúa gạo, ví dụ như: máy làm đất, máy phun thuốc trừ sâu, chăm sóc tưới tiêu, máy gặt đập liên hợp).
– Phân tích đánh giá, xác định được các nguyên nhân gây mất an toàn lao động, tai nạn lao động trong sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
– Nghiên cứu đề xuất chương trình quản lý toàn diện, kiểm soát an toàn lao động trong sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tổng hợp máy móc sử dụng cho sản xuất lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Tổng hợp được máy móc sử dụng cho sản xuất lúa gao toàn vùng và phân tích mức độ áp dụng cơ giới hóa với từng loại máy, từng công đoạn sản xuất, tính bình quân với 100 hộ sản xuất nông nghiệp, 100 ha diện tích đất sử dụng trồng lúa để từ đó thấy được mức độ cơ giới hóa sản xuất lúa gạo toàn khu vực [4],[7]. Song song công việc trên; đề tài điều tra, đánh giá tình hình ATLĐ, TNLĐ trong sử dụng máy móc sản xuất lúa gạo thông qua nhận diện các mối nguy hiểm xảy ra trong quá trình sử dụng thiết bị trên thực tế; so sánh với các Tiêu chuẩn an toàn cho một số máy đã có và các quy định của pháp luật để xác định, đánh giá các nguyên nhân gây mất an toàn trong sản xuất. Qua phân tích thực tế cho thấy việc đưa Tiêu chuẩn an toàn vào áp dụng với thực tế máy móc sản xuất lúa gạo còn một khoảng cách khá lớn. Bên cạnh đó còn những mối nguy hiểm từ bản thân của thiết bị (lưỡi cắt của máy cắt, lưỡi cắt của máy gặt xếp dãy, các răng nhọn cào, xới, các khớp nối….) không thể loại trừ, chỉ có thể giảm thiểu nguy cơ đâm, cắt nhưng điều này hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ hiểu biết về cách làm việc an toàn của người lao động đối với từng thiết bị.
3.2. Khảo sát tình hình sử dụng máy móc thiết bị trong sản xuất lúa gạo vùng ĐBSCL
Tiến hành khảo sát 662 hộ sản xuất nông nghiệp có sử dụng máy móc thiết bị trong sản xuất lúa gạo với 1918 thiết bị các loại được khảo sát. Thực tế chúng tôi không thể điều tra chi tiết cho từng loại máy mà chỉ ghi nhận số loại máy mỗi hộ thống kê đang sử dụng và loại hình tai nạn thường gặp trong quá trình sử dụng các loại thiết bị này với các yếu tố cơ bản về con người, thiết bị để có một đánh giá chung về thực trạng an toàn lao động trong sản xuất lúa gạo ở các tỉnh ĐBSCL. Tổng hợp kết quả về loại hình tai nạn với các máy móc sản xuất chủ yếu như sau (Bảng 1).
Bảng 1: Tổng hợp loại máy, thiết bị điều tra.
3.3. Phân tích, đánh giá nguyên nhân gây mất an toàn lao động.
Những con số chúng tôi thu thập được ở trên có thể rút ra một số nhận xét về người sử dụng máy móc trong hoạt động sản xuất lúa gạo.
3.3.1. Người điều khiển thiết bị
Người điều khiển thiết bị đa số đạt độ tuổi lao động trên 18 tuổi (91,8%), trong đó chỉ có 24,3% được đào tạo về nghề nghiệp và 34,9 % có nghe nói (chưa phải huấn luyện) về an toàn lao động khi làm việc với máy móc thiết bị.
3.3.2. Máy móc thiết bị
+ Máy, thiết bị thuộc nhóm cơ khí như cày, bừa, xới, tỉ lệ tai nạn do vật, đâm cắt (20,7%), văng bắn (35,2%), té ngã (30,2%) có tỉ lệ cao.
– Văng bắn do các chuyển động quay của các bộ phận làm việc khi vận hành cung cấp động năng cho đối tượng lao động, do nguyên lý làm việc của thiết bị, không phải bộ phận quay nào cũng có thể che chắn được.
– Các bộ phận làm việc hở của nhóm máy cơ khí này thông thường là sắc (dao cắt, đĩa cắt, lưỡi phay…) và nhọn (mũi rẽ lúa, răng bừa…) nên tai nạn do bị đâm, cắt cũng cótỉ lệ cao.
– Tai nạn do té, ngã có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong vận hành thông thường người điều khiển không kiểm soát được máy (với loại cày, xới hai bánh), té ngả do trượt chân khi lên xuống máy kéo, té ngả do tập trung vào năng suất lơ là khâu an toàn, đặc biệt với môi trường lao động nước, bùn trơn trượt.
+ Máy móc thiết bị: máy, thiết bị thuộc nhóm máy gặt, liên hợp gặt đập, tỉ lệ tai nạn do vật, đâm cắt (16,2%), văng bắn (37,2%), kẹp, kẹt tay chân (16,3%) Vật văng bắn chủ yếu là lùa và các vật bám dính vào bộ phận có chuyển động quay của máy..
+ Máy bơm nước: Máy bơm nước khảo sát các hộ sản xuất thường sử dụng máy bơm điện, máy động lực sử dụng nhiên liệu. Tai nạn chủ yếu ở đây là té ngã (15,2%). điện giật (9,06%). Máy bơm sử dụng ở loại hình này thường không cố định mà di chuyển theo yêu cầu canh tác, vụ mùa. Do di chuyển như vậy cùng với môi trường làm việc không thuận lợi nên những hỏng hóc về cách điện của dây dẫn, thiết bị dễ xảy ra dẫn đến tai nạn điện và té ngã do trơn trượt của mặt bằng làm việc.
+ Máy phun thuốc bảo vệ cây trồng. Nguy hại ở đây là thuốc văng bắn vào người, ngộ độc và té ngã. Thuốc văng bắn vào người (64,1%) và ngộ độc các dạng (13,8%) do không sử dụng PTBVCN. Té ngã cũng có tỉ lệ cao (21,9%) là do khi phun thuốc, chủ yếu vẫn là máy phun đeo vai, người lao động thường phải mang thiết bị nặng và do chú ý đến việc phun thuốc mà quên quan sát mặt đất nên thường vấp ngã.
+ Máy tuốt lúa: Những năm gần đây, máy gặt đập liên hợp đưa vào sử dụng, máy tuốt lúa có khuynh hướng giảm nhưng chưa nhiều. Số máy tuốt lúa theo thông kê trong vùng còn hơn 23.000 chiếc. Dạng tai nạn chủ yếu là vật văng bắn (67,2%), té ngã (20,2%) và bị kẹt, kep tay vào máy (12,6%)
3.3.3. Môi trường lao động
Bản thân nông dân vốn ít kiến thức, làm việc với đối tượng lao động tuy không phức tạp nhưng tiềm ẩn nhiều nguy cơ không an toàn trong một môi trường lao động không thuận lợi về địa hình, thời tiết và nhiều yếu tố khác. Thêm vào đó, các yếu tố không thuận lợi này con người khó có thể can thiệp để có thể giảm bớt những nguy cơ do các yếu tố từ môi trường lao động gây ra.
3.4. Phân tích, đánh giá xác định các nguyên nhân gây mất an toàn lao động, tai nạn lao động trong sử dụng máy sản xuất lúa gạo
Thông qua khảo sát máy móc thiết bị, người lao động điều khiển máy, thiết bị là yếu tố không thể bỏ qua khi đề cặp đến tai nạn lao động khi sử dụng máy móc, thiết bị nông nghiệp. Thông thường khi phân tích nguyên nhân dẫn tới tai nạn lao động – tiêu chí quan trọng đánh giá công tác an toàn lao động – chúng tôi qui về 4 nhóm nguyên nhân:
3.4.1. Yếu tố con người: người lao động điều khiển thiết bị máy móc, sức khỏe, tay nghề (trình độ, sự am hiểu về sử dụng máy móc thiết bị), tuổi nghề, kiến thức về an toàn lao động trong sử dụng máy móc thiết bị.
Người vận hành chưa được đào tạo về an toàn lao động, kỹ thuật vận hành cũng như kỹ thuật an toàn, chủ yếu là từ hiểu biết và kinh nghiệm của người đi trước cho người sau. Đây chính là cái gốc của những sai sót khác của người lao động như:
– Sai sót trong việc tháo, lắp, thay thế (tháo, lắp bộ phận canh tác vào máy động lực, bộ phận truyền lực, bộ phận dẫn động …)
– Thiếu quan sát đến các bộ phận nguy hiểm để hở (gờ cạnh sắc, nhọn của thiết bị), không chú ý quan sát người lao động chung quanh.
– Thấy nguy hiểm nhưng vẫn làm (tháo lắp đai truyền lực khi nguồn động lực đang vận hành),
– Làm vội, nhanh đề chạy theo năng suất.
– Nhờ người khác tham gia vào công việc và bản thân họ cũng không nắm được những vấn đề an toàn lao động khi tham gia.
– Không sử dụng phương tiện cá nhân, hoặc có cũng rất sơ sài, không đạt yêu cầu.
Để đánh giá khả năng gây tai nạn lao động trong sử dụng máy, thiết bị sản xuất lúa gạo do người lao động chúng tôi chọn khảo sát qua 2 thông số cơ bản là đào tạo nghề và hiểu biết về an toàn lao động. Cũng cần lưu ý rằng người vận hành máy ở đây được nghe, biết về an toàn lao động thông qua các tổ chức như Hội nông dân, Trung tâm khuyến nông, Phòng nông nghiệp Huyện…chứ chưa được huấn luyện một cách bài bản.
3.4.2. Yếu tố máy, thiết bị: Máy, thiết bị sử dụng trong sản xuất lúa gạo đa dạng, do vậy nguyên nhân gây ra mất an toàn lao động rất khác nhau và phức tạp. Dựa vào nguy cơ tai nạn có thể liên quan đến máy thiết bị điện nông nghiệp – viện dẫn tiêu chuẩn; thực hiện khảo sát thống kê 1198 máy các loại phục vụ sản xuất lúa gạo, chúng tôiđã tổng hợp 7 dạng tai nạn thường gặp khi sử dụng các loại máy ở lĩnh vực này là: đâm cắt, vật văng bắn, kẹt, kep, té ngã, điện giật, ngộ độc xuất phát từ các yếu tố sau:
– Máy móc sử dụng phổ biến không kiểm soát được chất lượng, tốn thời gian, công sức trong công tác bảo trì, bảo dưỡng.
– Nguồn động lực của các loại máy đa dạng, nhiều tính năng hoạt động kết hợp vào cùng một máy.
– Nhiều bộ phận có chuyển động quay hở, khe hở giữa các bộ phận động của máy, các bộ phận gập, các bộ phận sắc, nhọn hở.
– Thiếu các phương tiện, công cụ bảo vệ an toàn (bao che, cảnh báo…)
3.4.3. Yếu tố môi trường: Tác động của các yếu tố về môi trường lao động là một trong các nguyên nhân dẫn đến tai nạn lao động như thời tiết, môi trường đất, nước, không khí, đối tượng lao động, địa hình lao động, đối tượng tác động ….
– Đối tượng lao động đa dạng, môi trường lao động nông nghiệp là môi trường luôn thay đổi, không chuẩn tắc (nhiều khâu lao động khác nhau, thời gian thu sản phẩm kéo dài…)
– Quá trình lao động bị tác động bởi nắng nóng, mưa, gió, bụi, bùn đất, tiếng ồn, rung động…
– Sản xuất thương xuyên thay đổi theo thời tiết, vụ mùa, khí hậu…tạo nên áp lực cho người lao động sản xuất.
3.4.3. Yếu tố quản lý: Trong nhiều năm dài, lao động nông nghiệp chưa được đưa vào diện điều chỉnh của Luật Lao động cho đến khi Luật An toàn, Vệ sinh lao động năm 2015 ra đời thì đối tượng này mới được đưa vào phạm vi áp dụng của luật. Một thời gian dài đối tượng lao động này không chịu một sự quản lý nào về an toàn lao động. Khoảng trống về quản lý theo luật pháp là yếu tố quan trọng góp phần dẫn đến nguyên nhân thiếu an toàn lao động trong sản xuất ở lĩnh vực này.
– Do chưa được điều chỉnh bởi luật pháp nên hoạt động của họ không bị quản lý,giám sát, chế tài.
– Văn bản chỉ đạo của Bộ, Ngành liên quan thi còn ở cấp vĩ mô và thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể về tổ chức thực hiện đặc biệt là với đối tượng chưa thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Từ đó liên quan đến hàng loạt các khiếm khuyết do các yếu tố về quản lý:
+ Thiếu văn bản hướng dẫn, đào tạo, huấn luyện về ATLĐ cho ngành, nghề trong nông nghiệp.
+ Thiếu cơ chế, văn bản trong quản lý máy, thiết bị, phương tiện sản xuất nông nghiệp.
+ Thiếu cơ chế, văn bản trong công tác kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất nông nghiệp.
Với dữ liệu như trên có thể xem thực trạng lao động với máy, thiết bị cơ điện ở một số ngành của sản xuất nông nghiệp còn phải đầu tư nhiều vì chưa an toàn, nguy cơ xảy ra TNLĐ vẫn còn tiếp diễn. Với máy tuốt lúa và máy phun thuốc, vật văng bắng chù yếu là lúa và thuốc, chúng tôi không điều tra ở góc độ thương tích nhưng rõ ràng là nguy cơ xảy ra tai nạn không thể xem nhẹ.
3.5. Đề xuất Chương trình quản lý và kiểm soát an toàn lao động trong sản xuất lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long.
Căn cứ trên cơ sở pháp lý về tình hình, chiến lược cơ giới hóa nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long [4] ,việc tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện An toàn – Vệ sinh lao động trong sản xuất nông nghiệp [5] và kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đề xuất xây dựng Chương trình quản lý và kiểm soát an toàn lao động với các định hướng, mục tiêu và giải pháp cụ thể để thực hiện chương trình với tầm nhìn đến năm 2030 nhằm giúp cơ quan quản lý nhà nước các cấp có cơ sở xây dựng chủ trương, kế hoạch, chỉ đạo thực hiện việc đảm bảo và nâng cao công tác an toàn lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng cho khu vực.
IV. KẾT LUẬN
Thông qua khảo sát và đánh giá thực trạng an toàn lao động trong sử dụng máy móc, thiết bị sản xuất lúa gạo, nhóm nghiên cứu đã phân tích cụ thể một số nguyên nhân chủ yếu về quản lý, máy móc thiết bị, con người và môi trường và qua đó đã đề xuất xây dựng Chương trình quản lý, kiểm soát an toàn lao động cho vùng ĐBSCL góp phần vào công tác quản lý, kiểm soát AT,VSLĐ cho đối tượng là người lao động trực tiếp với máy móc sử dụng trong nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng nhằm giảm thiểu tai nạn lao động trong thời gian tới như mục tiêu của “Chương trình Quốc gia về AT, VSLĐ giai đoạn 2016-2020” và những năm tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thông báo tình hình tai nạn lao động 2016. Cục An toàn Lao động Bộ LĐTBXH
[2]. Nguyễn Thúy Quỳnh và cộng sự (2011) “Nghiên cứu thực trạng tai nạn thương tích trong nông nghiệp tại Việt nam” Đại học Y tế Công cộng, .
[3]. Tổ chức Lao động Quốc tế, 2011. “An toàn và sức khỏe trong nông nghiệp”.
[4]. Cục Thống kê 13 tỉnh, thành phố 2013. Tổng cục thống kê 2011. Kết quả điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản.
[5]. Bộ NN và PTNT (2012). Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất nghành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030.
[6]. Chỉ thị số 20/2004/CT-TTg ngày 08/6/2004 Về việc tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện An toàn Vệ sinh lao động trong sản xuất nông nghiệp.
[7]. Chu Văn Thiện (2008). Nghiên cứu lựa chọn quy trình công nghệ và hệ thống máy, thiết bị cho mô hình sản xuất lúa hướng cơ giới hóa đồng bộ ở vùng ĐBSH và ĐBSCL. Đề tài KHCN cấp nhà nước KC-07-06/06-10.
TS. Nguyễn Đắc Hiền
Phân viện KHATVSLĐ và BVMT miền Nam
(Nguồn tin: Vnniosh.vn)