Căng thẳng nghề nghiệp ở lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông
Kết quả nghiên cứu cho thấy: 100% các xe khách đường dài đều sử dụng điều hòa trên xe; yếu tố vi khí hậu, cường độ tiếng ồn trên xe đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. 100% lái xe được đào tạo, tập huấn, hướng dẫn về vận tải hành khách; an toàn giao thông; kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phục vụ hành khách. Các quy định để đảm bảo an toàn giao thông và sức khỏe người lái xe (số giờ lái xe trong một ngày, thời gian lái xe liên tục, khám tuyển, khám sức khỏe định kỳ, xét nghiệm các chất gây nghiện định kỳ và đột xuất cho lái xe vv…) đều được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Công việc gây căng thẳng thần kinh tâm lý, thời gian lao động kéo dài, chế độ thay ca không ổn định, thường xuyên phải lái đêm, làm việc trong tư thế bất lợi (phải ngồi lâu trong thời gian dài)… là yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông. Tỷ lệ lái xe khách đường dài có biểu hiện stress là 58,5%; lo âu là 40,0%; điểm rối loạn giấc ngủ với Global≥10 điểm (theo thang PSQI) là 29,0%. Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện stress cao gấp 4,2 lần; biểu hiện lo âu cao gấp 3,0 lần; điểm Glober score ≥10 điểm cao gấp 1,6 lần so với nhóm không có biểu hiện stress, không có biểu hiện lo âu và điểm Glober score <10 điểm với p<0,01 (lần lượt 95%CI là 1,5-11,7; 1,3-6,5 và 1,3-5,5). Các trạng thái, hành vi của lái xe phổ biến là: 52,5% có biểu hiện mệt mỏi; 70,0% kiểm soát nguy cơ tốt; 42,5% kém thư giãn khi lái xe; 44,5% kém kiên nhẫn khi lái xe; 35,0% có biểu hiện lo lắng khi lái xe. Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện trạng thái mệt mỏi cao gấp 2,1 lần; điểm kiểm soát nguy cơ không tốt cao gấp 3,4 lần; điểm kiên nhẫn khi lái xe không tốt cao gấp 4,7 lần so với nhóm không có biểu hiện trạng thái mệt mỏi; điểm kiểm soát nguy cơ tốt; điểm kiên nhẫn khi lái xe tốt với p<0,05 (lần lượt 95%CI là 1,0-4,4; 1,6-7,2 và 2,0-11
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lái xe là một nghề đặc biệt. An toàn khi lái xe là yêu cầu, mục tiêu lớn nhất khi tham gia giao thông bởi nó liên quan tới tính mạng của con người (của chính lái xe và những người tham gia giao thông); đặc biệt là xe khách đường dài – liên quan tới tính mạng nhiều người – các hành khách trên xe.
Tai nạn giao thông là vấn đề nhức nhối của xã hội hiện nay. Theo báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia, năm 2017, toàn quốc xảy ra 20.800 vụ tai nạn giao thông, làm chết 8.279 người, bị thương 17.040 người. So với 12 tháng năm 2016, tai nạn giao thông giảm cả về số vụ giảm 1.509 vụ (giảm 6,99%); số người chết giảm 406 người (giảm 4,67%); số người bị thương giảm 2.240 người (giảm 11,62%) (trang https://vov.vn ngày 31 tháng 12 năm 2017). Tuy vậy, nguy cơ về tai nạn giao thông ở nước ta vẫn là rất cao. Trung bình hàng ngày có hơn 20 người đi và không quay trở về nhà; 60 người bị thương vì tai nạn giao thông; 84% số nạn nhân trong độ tuổi từ 19-55, là trụ cột của gia đình, cộng đồng, cơ quan và xã hội (trang http://antoangiaothong.gov.vn/ ngày 28 tháng 12 năm 2017).
Quốc lộ là tuyến đường chủ yếu cho chạy xe khách tuyến cố định, chạy đường dài trong giao thông đường bộ, đặc biệt tuyến quốc lộ 1A là tuyến quốc lộ trọng điểm, kéo dài từ Bắc vào Nam; bởi vậy việc đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến đường này là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Theo số liệu từ tổng cục Đường bộ Việt Nam: hiện nay trên các tuyến quốc lộ đang tồn tại 64 điểm đen thường xuyên xảy ra tai nạn và 251 vị trí tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông cao. Nếu đối chiếu, các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đa số đều xảy ra ở các vị trí này, mặc dù tại đây đều có đặt biển cảnh báo, nhưng do lái xe không tuân thủ quy định nên những tai nạn thảm khốc vẫn xảy ra. Điều đáng nói là các vụ tai nạn thảm khốc thường xảy ra tại các quãng đường đẹp, không bị hạn chế tầm nhìn (trang http://m.baotintuc.vn ngày 21/6/2013). Phân tích từ các vụ tai nạn giao thông cho thấy 80% là do lỗi của người điều khiển phương tiện giao thông (lái xe).
Mục tiêu nghiên cứu
– Đánh giá gánh nặng lao động ở lái xe khách đường dài
– Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
200 nam lái xe khách đường dài tuyến cố định liên tỉnh thuộc 5 doanh nghiệp vận tải có hành trình chạy xe qua tuyến quốc lộ 1A.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Chỉ tiêu và phương pháp
2.2.2.1. Đánh giá điều kiện lao động của lái xe khách đường dài
– Đo các yếu tố môi trường lao động:
+ Đo vi khí hậu (Nhiệt độ; Độ ẩm; Vận tốc gió)
+ Đo tiếng ồn
* Phương pháp đo theo thường quy kỹ thuật Sức khỏe nghề nghiệp và Vệ sinh môi trường
* Tiêu chuẩn đánh giá: theo các quy định hiện hành
– Đánh giá đặc điểm điều kiện lao động của lái xe khách đường dài: bằng quan sát, phỏng vấn, phân tích lao động đặc thù, bấm thời gian lao động.
2.2.2.2. Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông.
– Điều tra doanh nghiệp vận tải về Hành trình chạy xe, lịch trình chạy xe, cự ly vận chuyển; Kỹ năng nghề nghiệp: đào tạo, tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về vận tải hành khách và an toàn giao thông.
– Điều tra cá nhân về các yếu tố nguy cơ về tâm sinh lý ảnh hưởng tới sức khỏe của lái xe (Stress, lo âu, rối loạn giấc ngủ, hành vi của lái xe)
– Hồi cứu số liệu về hồ sơ khám sức khoẻ tại doanh nghiệp
– Hồi cứu số liệu về tai nạn giao thông tại doanh nghiệp
2.2.3 Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học và chương trình phần mềm SPSS 20.0
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đánh giá gánh nặng lao động của lái xe khách đường dài tuyến cố định liên tỉnh
3.1.1. Môi trường lao động của của lái xe khách đường dài tuyến cố định liên tỉnh
Hiện nay, các xe khách đường dài của các hãng khảo sát đều sử dụng điều hòa. Kết quả đo một số yếu tố môi trường tại các tuyến xe khách đường dài cho thấy nhiệt độ dao động 23,50C-30,00C; độ ẩm 50,0%-80,0%; tốc độ gió 0,20 m/s -0,29m/s; các mẫu đo tại các thời điểm đầu ca, giữa ca và cuối ca đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép (QCVN 26:2016/BYT). Cường độ tiếng ồn dao động từ 60,0dBA-80,0dBA; đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép (QCVN 24:2016/BYT)
3.1.2. Đặc điểm điều kiện lao động của lái xe khách đường dài tuyến cố định liên tỉnh
– 100% lái xe được đào tạo, tập huấn, hướng dẫn về vận tải hành khách; an toàn giao thông; kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phục vụ hành khách. Các quy định để đảm bảo an toàn giao thông như số giờ lái xe trong một ngày phải dưới 10 giờ, khi lái xe tối đa là 4 giờ phải đổi lái, khám tuyển, khám sức khỏe định kỳ, xét nghiệm các chất gây nghiện định kỳ và đột xuất cho lái xe vv… đều được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc vv… 40% doanh nghiệp có chế độ khen thưởng cho lái xe chạy an toàn.
– Đặc điểm, yêu cầu công việc của các lái xe có nhiều yếu tố đặc thù ảnh hưởng sức khỏe của lái xe và nguy cơ tai nạn giao thông:
+ Thường xuyên làm việc trong môi trường căng thẳng thần kinh tâm lý (công việc đòi hỏi phải có trí nhớ tốt; cần những quyết định nhanh, kịp thời, chính xác, phản ứng nhanh…), dễ gây mệt mỏi, buồn ngủ; thiếu kiên nhẫn, bình tĩnh khi lái xe; có nhiều tình huống bất ngờ, yếu tố bất trắc trên đường.
+ Thời gian lao động kéo dài, chế độ thay ca không ổn định, thường xuyên phải lái đêm; (các tuyến <300km các lái xe phải lái quay vòng trong ngày; đặc biệt với các tuyến đường dài >300 km như tuyến Hà Nội – Sài Gòn)
– Làm việc trong tư thế bất lợi (phải ngồi lâu trong thời gian dài), tiếp xúc với rung toàn thân, nguy cơ cao về rối loạn cơ xương
3.2. Một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông.
Hình 1. Mức điểm stress ở lái xe
Kết quả tự đánh giá về stress ở lái xe cho thấy: 41,5% lái xe có mức điểm stress ở mức thấp; 52,0% lái xe có mức điểm stress ở mức trung bình; 6,5% lái xe có mức điểm stress ở mức cao. Tỷ lệ lái xe khách đường dài có biểu hiện stress là 58,5%.
Tỷ lệ lái xe khách đường dài có biểu hiện lo âu với mức độ nhẹ qua đánh giá bằng test Zung là 40,0%.
Hình 2. Rối loạn giấc ngủ ở lái xe
Đánh giá rối loạn giấc ngủ ở lái xe theo thang PSQI cho thấy: tỷ lệ lái xe khách đường dài có rối loạn giấc ngủ theo thang PSQI (điểm Global≥10) là 58/200 lái xe (29,0%). Trong đó tỷ lệ lái xe có chất lượng giấc ngủ kém/ tương đối kém là 53,5%; 31,5% lái xe khó đi vào giấc ngủ; thời gian ngủ trung bình ≤5h là 65,5% với hiệu quả giấc ngủ ≤85% là 19,0%. 97,5% lái xe có tỉnh giấc khi ngủ; 3,5% phải sử dụng thuốc ngủ và 63,0% gặp khó khăn trong công việc/ cuộc sống do rối loạn giấc ngủ.
Hình 3. Hành vi của lái xe
Các hành vi của lái xe khi đánh giá: 52,5% có biểu hiện mệt mỏi; 70,0% kiểm soát nguy cơ tốt; 42,5% kém thư giãn khi lái xe; 44,5% kém kiên nhẫn khi lái xe; 35,0% có biểu hiện lo lắng khi lái xe.
Toàn bộ các lái xe đều được khám sức khỏe định kỳ 1 năm/ lần, được xét nghiệm các chất gây nghiện và được kết luận đủ điều kiện lái xe tại các cơ sở y tế có chức năng.
Trong số 200 lái xe tham gia nghiên cứu, 132 lái xe (66,0%) được hồi cứu chi tiết về tai nạn giao thông trong 3 năm qua thông qua quản lý lý lịch cá nhân của lái xe.
Hình 4. Tỉ lện lái xe vi phạm, tai nạn giao thông
Số lái xe có ghi nhận vi phạm, tai nạn giao thông năm 2016 là 20/132 (15,2%); năm 2015 là 21/132 (15,9%) và năm 2014 là 12/132 (9,8%). Tổng số vụ/ lượt vi phạm, tai nạn giao thông có xu hướng gia tăng trong năm 2016 và 2015 hơn so với năm 2014.
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện stress cao gấp 4,2 lần so với nhóm không có biểu hiện stress (90,0% so với 68,3%; p<0,01; 95%CI=1,5-11,7).
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện lo âu cao gấp 3,0 lần so với nhóm không có biểu hiện lo âu (76,0% so với 51,2%; p<0,01; 95%CI=1,3-6,5).
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có điểm Glober score ≥10 điểm cao gấp 1,6 lần so với nhóm có điểm Glober score <10 điểm (54,0% so với 30,5%; p<0,01; 95%CI=1,3-5,5).
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện trạng thái mệt mỏi cao gấp 2,1 lần so với nhóm không có biểu hiện trạng thái mệt mỏi (66,0% so với 47,6%; p<0,05; 95%CI=1,0-4,4).
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có điểm kiểm soát nguy cơ không tốt cao gấp 3,4 lần so với nhóm có điểm kiểm soát nguy cơ tốt (56,0% so với 26,8%; p<0,05; 95%CI=1,6-7,2).
Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có điểm kiên nhẫn khi lái xe không tốt cao gấp 4,7 lần so với nhóm có điểm kiên nhẫn khi lái xe tốt (84,0% so với 52,4%; p<0,05; 95%CI=2,0-11,3).
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% các xe khách đường dài đều sử dụng điều hòa trên xe; các yếu tố vi khí hậu, cường độ tiếng ồn trên xe đo được khi xe chạy đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với các nghiên cứu về lái xe trước đây cho rằng lái xe tiếp xúc với nóng, ồn, rung chuyển… vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép do các nghiên cứu trước đây tập trung vào lái xe bưu chính, xe tải lớn, xe máy thi công… và trên xe không sử dụng hệ thống điều hòa (Nguyễn Thu Hà [1], Nguyễn Thị Toán [2]).
Lái xe là một trong những nghề nghiệp rất căng thẳng, có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe và tai nạn giao thông. Stress, lo âu, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, hành vi lái xe không an toàn vv… là những yếu tố tâm sinh lý ở người lái xe có liên quan khá mật thiết với tai nạn giao thông đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra.
Nghiên cứu của Lai SK (2001) [7] chỉ ra mệt mỏi, căng thẳng khi lái xe là nguyên nhân chính gây ra tai nạn đường bộ và có liên quan đến an toàn đường bộ. Lotfi S (2017) [8] cho thấy trong 610 lái xe ở Iran (được chia thành 4 nhóm với 3 kiểu đối phó) thì các lái xe có khuynh hướng căng thẳng cảm xúc dễ bị tai nạn hơn so với những người biết cách giải quyết vấn đề và biết cách đối phó (p <0,001). De Mello MT (2013) [4] điều tra gần đây cho thấy có liên quan đến sự mệt mỏi của lái xe đến 16% đến 20% các tai nạn đường cao tốc nghiêm trọng ở Anh, Úc và Braxin.
Buồn ngủ được coi là nguyên nhân hàng đầu gây ra tai nạn giao thông. Baiardi S (2018) [3] đánh giá tình trạng buồn ngủ ban ngày quá mức trên 221 lái xe thương mại thấy tỷ lệ lái xe có tình trạng buồn ngủ ban ngày quá mức là 4,5%. Gonçalves M (2015) [5] nghiên cứu trên 900 lái xe cho thấy: 3,1% thừa nhận đã ngủ gật trong khi lái xe trong năm trước và 0,67% cho biết đã xảy ra những vụ tai nạn do buồn ngủ. Lái xe hơn 15.000 km / năm, lái xe thường xuyên hơn trong khoảng từ 6-12 giờ sáng, thâm niên lái xe ít, tổng thời gian ngủ ít hơn mỗi đêm và điểm số cao trong thang đánh giá buồn ngủ liên quan với việc buồn ngủ khi lái xe. Masa JF (2000) [9] phỏng vấn 4002 lái xe được có 145 (3,6%) thường buồn ngủ khi lái xe. Các lái xe buồn ngủ có các vụ đụng xe cao hơn đáng kể so với các lái xe khác (OR= 13,3 CI = 4,1-43). Sagaspe P (2010) [11] nghiên cứu về sự buồn ngủ, suýt tai nạn và tai nạn khi lái xe ở Pháp. Trong số 4774 lái xe được phỏng vấn (tỷ lệ trả lời là 86%), 28% có ít nhất một lần buồn ngủ nghiêm trọng khi lái xe (tức là phải dừng lái xe) trong năm trước; 11% người lái xe báo cáo ít nhất một lần suýt tai nạn trong năm trước (46% liên quan đến buồn ngủ); 5,8% lái xe có ít nhất một vụ tai nạn (5,2% trong số này liên quan đến buồn ngủ), ước tính khoảng 90.000 vụ tai nạn liên quan đến giấc ngủ mỗi năm ở Pháp.
Các hành vi không an toàn (không kiểm soát được nguy cơ, kém kiên nhẫn khi lái xe vv…) là những nguyên nhân chính gây ra tai nạn chủ yếu (ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân, môi trường xã hội, chu kỳ sinh học cá nhân…) Nghiên cứu của Kamari Ghanavati F (2018) [6] được thực hiện trên 224 lái xe buýt ở Shiraz, Iran, kết quả cho thấy tỷ lệ có hành vi không an toàn là 54,08 trong số các đối tượng nghiên cứu. Shahar A (2009) [12] kiểm tra các hành vi của 120 nam lái xe Israeli. Kết quả cho thấy các hành vi lái xe nguy hiểm có nguy cơ cao hơn ở những người có mức độ lo lắng cao.
Qu W (2016) [10] tìm hiểu mối tương quan giữa các hành vi nguy hiểm của lái xe với trạng thái stress. 246 lái xe đã tham gia nghiên cứu. Trạng thái stress ở lái xe có tương quan trung bình hoặc yếu với hành vi nguy hiểm của lái xe. Kiểm soát các yếu tố nguy cơ và sự mệt mỏi có tương quan yếu với tai nạn. Và lái xe đã vi phạm tốc độ, vi phạm giao thông (trong ba năm gần đây) có sự hung hăng và tìm kiếm cảm giác mạnh hơn khi lái xe so với những người không vi phạm.
V. KẾT LUẬN
– Điều kiện lao động của lái xe khách đường dài: 100% các xe khách đường dài đều sử dụng điều hòa trên xe; yếu tố vi khí hậu, cường độ tiếng ồn trên xe đều đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. 100% lái xe được đào tạo, tập huấn, hướng dẫn về vận tải hành khách; an toàn giao thông; kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phục vụ hành khách. Các quy định để đảm bảo an toàn giao thông và sức khỏe người lái xe (số giờ lái xe trong một ngày, thời gian lái xe liên tục, khám tuyển, khám sức khỏe định kỳ, xét nghiệm các chất gây nghiện định kỳ và đột xuất cho lái xe vv…) đều được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc.
– Yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông: Công việc gây căng thẳng thần kinh tâm lý, thời gian lao động kéo dài, chế độ thay ca không ổn định, thường xuyên phải lái đêm, làm việc trong tư thế bất lợi (phải ngồi lâu trong thời gian dài)… Tỷ lệ lái xe khách đường dài có biểu hiện stress là 58,5%; lo âu là 40,0%; điểm rối loạn giấc ngủ với Global≥10 điểm (theo thang PSQI) là 29,0%. Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện stress cao gấp 4,2 lần; biểu hiện lo âu cao gấp 3,0 lần; điểm Glober score ≥10 điểm cao gấp 1,6 lần so với nhóm không có biểu hiện stress, không có biểu hiện lo âu và điểm Glober score <10 điểm với p<0,01 (lần lượt 95%CI là 1,5-11,7; 1,3-6,5 và 1,3-5,5). Các trạng thái, hành vi của lái xe phổ biến là: 52,5% có biểu hiện mệt mỏi; 70,0% kiểm soát nguy cơ tốt; 42,5% kém thư giãn khi lái xe; 44,5% kém kiên nhẫn khi lái xe; 35,0% có biểu hiện lo lắng khi lái xe. Nguy cơ tai nạn giao thông ở nhóm lái xe khách đường dài có biểu hiện trạng thái mệt mỏi cao gấp 2,1 lần; điểm kiểm soát nguy cơ không tốt cao gấp 3,4 lần; điểm kiên nhẫn khi lái xe không tốt cao gấp 4,7 lần so với nhóm không có biểu hiện trạng thái mệt mỏi; điểm kiểm soát nguy cơ tốt; điểm kiên nhẫn khi lái xe tốt với p<0,05 (lần lượt 95%CI là 1,0-4,4; 1,6-7,2 và 2,0-11,3).
VI. KHUYẾN NGHỊ
Các tác giả khuyến nghị cần có giải pháp làm giảm yếu tố nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe của lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thu Hà (2002), Nghiên cứu điều kiện lao động đặc thù và tình hình đau thắt lưng ở công nhân lái xe mỏ than cọc sáu – Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội.
[2]. Nguyễn Thị Toán (2005), Ảnh hưởng của rung toàn thân tới công nhân lái xe tải lớn, xe máy thi công, Báo cáo khoa học toàn văn Hội nghị khoa học quốc tế y học lao động và vệ sinh môi trường lần thứ II, Hội nghị khoa học y học lao động toàn quốc lần thứ VI tại Hà Nội, 16-18/11/2005, Nhà xuất bản y học, Tr.483-487.
[3].Baiardi S, La MorgiaC, Sciamanna L et al (2018). “Is the Epworth Sleepiness Scale a useful tool for screening excessive daytime sleepiness in commercial drivers?”. Accid Anal Prev. 2018 Jan;110:187-189.
[4]. De Mello MT, Narciso FV, Tufik S el al (2013), Sleep disorders as a cause of motor vehicle collisions. Int J Prev Med. 2013 Mar; 4(3):246
[5]. Goncalves M (2015). Sleepiness and Motor Vehicle Crashes in a Representative Sample of Portuguese Drivers: The Importance of Epidemiological Representative Surveys.Traffic inj Prev. 2015;16(7):677-83.
[6]. Kamari Ghanavati F et al (2018). “The effect of biological rhythms and personality traits on the incidence of unsafe behaviors among bus drivers in Shiraz, Iran”. 2018 Jan;10(1):3-10.
[7]. Lai SK, Craiq A (2001), A critical review of the psychophysiology of driver fatigue. Biol Psychol. 2001 Feb;55(3):173-94
[8]. Lotfi S (2017). Driving Behavior among Different Groups of Iranian Drivers Based on Driver Coping Styles.Int J Prev Med. 2017 Jul 4;8:52.
[9]. Masa JF (2000). Habitually sleepy drivers have a high frequency of automobile crashes associated with respiratory disorders during sleep. 2000 Oct;162(4 Pt 1):1407-12.
Nguyễn Thu Hà
Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường
(Nguồn tin: Vnniosh.vn)