Thực trạng phơi nhiễm nghề nghiệp với Formaldehyde tại các công ty sản xuất gỗ các tỉnh Đông Nam Bộ 2018

Thứ Sáu, 01/12/2023, 09:48(GMT +7)

Để sản xuất được các mặt hàng đồ gỗ cần sử dụng các loại keo dán với thành phần chính là formaldehyde 37%. Năm 2004, Tổ chức nghiên cứu ung thư thế giới (IARC) đã xác định formaldehyde là một tác nhân gây ung thư ở con người [2]. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về tình hình phơi nhiễm với formaldehyde của người lao động ngành gỗ. Kết quả từ nghiên cứu này sẽ cung cấp số liệu cho lĩnh vực quan trắc môi trường ngành gỗ nhằm cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Formaldehyde (FA) là một chất khí không màu ở nhiệt độ thường, tan trong nước. FA có thể hấp thu qua đường tiêu hóa, gây tổn thương khi tiếp xúc ngoài da và đặc biệt là gây tổn thương đường hô hấp. Do FA hòa tan trong nước nên tác dụng kích thích giới hạn ở phần trên của hệ thống hô hấp [3]. Chúng gây biến đổi chức năng hô hấp, các triệu chứng viêm cấp và mạn tính, thậm chí gây ra ung thư. Năm 2004, Tổ chức nghiên cứu ung thư thế giới (IARC) đã xác định formaldehyde là một tác nhân gây ung thư ở con người [2].

Người lao động làm việc tại các vị trí có tiếp xúc với FA đều có nguy cơ nhiễm độc, đặc biệt là tại nơi làm việc thiếu các thiết bị bảo hộ lao động, điều kiện thông khí không đảm bảo, không được hướng dẫn những quy tắc an toàn hoặc thiếu hiểu biết về tác hại của FA. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về tình hình phơi nhiễm của người lao động tại Việt Nam, đặc biệt là chưa được xếp vào danh mục những bệnh nghề nghiệp cần được bảo hiểm. Mặc dù FA được sử dụng trong nhiều ngành nghề khác nhau nhưng với FA được sử dụng với số lượng lớn, số người tiếp xúc lên đến hàng trăm ngàn, chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là người lao động ngành chế biến gỗ.

Với nhiều điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên, vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, nguồn lao động dồi dào,… vùng Đông Nam Bộ đã và đang tạo điều kiện cho nhiều ngành nghề phát triển, trong đó có ngành công nghiệp chế biến gỗ. Trong số các doanh nghiệp gỗ trên cả nước, vùng Đông Nam Bộ có 2.352 doanh nghiệp, tương ứng gần 60%. Số người lao động làm việc trong môi trường lao động có FA cũng cao đáng kể.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phơi nhiễm với formaldehyde của người lao động tại một số cơ sở chế biến gỗ vùng Đông Nam Bộ.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp nghiên cứu cắt ngang trên tất cả người lao động làm việc trực tiếp trong quy trình chế biến các sản phẩm gỗ tại các cơ sở chế biến gỗ vùng Đông Nam Bộ. Chọn ngẫu nhiên 6 cơ sở chế biến gỗ có quy mô trên 100 nhân công và thực hiện quan trắc nồng độ FA tại các vị trí khác nhau của cơ sở. Các vị trí này phải là vị trí đang hoạt động trong thời gian nghiên cứu. Cỡ mẫu được ước tính theo công thức ước lượng một tỷ lệ, với độ tin cậy 95%. Mẫu FA liều cá nhân của 519 người lao động làm việc tại đây sẽ được thu thập liên tục trong suốt ca làm việc 8 giờ. HCHO được lấy mẫu, bảo quản mẫu và phân tích mẫu theo phương pháp NIOSH 2541, giới hạn phát hiện là 0,003mg/ m3; thông số này Phân Viện Khoa học An toàn Vệ sinh Lao và Bảo vệ Môi Trường Miền Nam đã đạt được và công nhận trong giấy phép VIMCERTS 113 của Bộ Tài nguyên Môi trường đối với môi trường xung quang và môi trườn lao động. Ngưỡng tiếp xúc với FA cho phép trung bình 8 giờ là dưới 0,5mg/m3 theo Quyết định 3733/2002/QĐ-BYT ngày 10/10/2002 của Bộ Y tế. Một số thông tin cá nhân và đặc điểm nghề nghiệp cũng sẽ được thu thập.

III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

                         Bảng 1. Một số thông tin cá nhân và điều kiện tại nơi làm việc của đối tượng tham gia

Nội dung

Tần số

Tỷ lệ (%)

Trình độ văn hóa

Cấp 1

Cấp 2

Cấp 3

Trung cấp

Trường nghiệp vụ

120

326

33

23

17

23,2

62,8

6,3

4,5

3,2

Số năm công tác

1 đến 2 năm

2 đến 5 năm

>5 năm

340

125

54

65,5

24,0

10,5

Làm việc theo ca

Không

312

207

60,1

39,9

Đánh giá môi trường làm việc

Tốt

Khá

Trung bình

Xấu

Rất xấu

104

52

208

135

20

20,0

10,0

40,0

26,0

4,0

Tiếp xúc yếu tố độc hại khi làm việc

Tiếng ồn

Hơi khí độc

Nhiệt độ cao

Bụi

420

311

353

441

81,0

60,0

68,0

85,0

Qua bảng trên nhận thấy: Người lao động làm việc tại 6 cơ sở sản xuất đồ gỗ chủ yếu là trình độ cấp 2 (62,8%). Các lao động phần lớn làm việc tại cơ sở từ 1 đến 2 năm (65,5%) và làm việc theo ca (60%). Đánh giá theo chủ quan người lao động tại các cơ sở, họ cho rằng môi trường làm việc ở mức trung bình là nhiều nhất với 40%, sau đó là đánh giá môi trường xấu với 26%. Hầu hết người lao động nhận thấy môi trường làm việc hiện tại có yếu tố tiếng ồn và bụi (trên 80%). Số ít hơn (trên 60%) nhận thấy môi trường có nhiệt độ cao và hơi khí độc.

3.2. Nồng độ formaldehyde tại các cơ sở

                         Bảng 2. Tổng hợp kết quả nồng độ FA tại các cơ sở chế biến đồ gỗ

Thông số

Cơ sở 1

Cơ sở 2

Cơ sở 3

Cơ sở 4

Cơ sở 5

Cơ sở 6

Giới hạn cho phép: ≤ 0,5 mg/m3

Số mẫu

25

52

49

50

36

45

Kết quả

0,52

0,46

0,4

0,45

0,62

0,73

SD

0,17

0,15

0,14

0,15

0,13

0,25

Min

0,19

0,04

0,08

0,09

0,16

0,23

Max

0,72

0,72

0,63

0,70

0,75

1,42

Qua bảng trên nhận thấy: tất cả các vị trí lao động được quan trắc đều phát hiện có formaldehyde và toàn bộ người lao động làm việc tại các vị trí này đều phơi nhiễm với formaldehyde trong quá trình làm việc. Có 3 cơ sở (50% cơ sở tham gia nghiên cứu)có nồng độ FA trong môi trường vượt ngưỡng giới hạn là 0,5mg/m3.

Trong quá trình sản xuất, người lao động chủ yếu thực hiện các thao tác thủ công, máy móc thô sơ. Quá trình sản xuất sinh nhiệt là điều kiện thuận lợi để phát tán FA trong không khí. Đặc biệt, tại cơ sở 6 có công đoạn sản xuất keo phục vụ trực tiếp cho quy trình sản xuất gỗ tại nhà máy do đó kết quả nồng độ FA tại một số vị trí vượt giới hạn nhiều lần. Một số khu vực có hệ thống thông gió, hút bụi cục bộ hoạt động kém, chưa đảm bảo tiêu chuẩn.

Theo nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Việt Hương và cộng sự (2016) xác định ô nhiễm FA trong môi trường không khí tại một số khu vực làm việc liên quan đến đồ gỗ, nội thất cũng cho thấy kết quả tương tự. Cụ thể, trong số 36 mẫu không khí phân tích phát hiện có 18 mẫu vượt tiêu chuẩn cho phép. Đồng thời, nồng độ FA ở các cửa hàng đồ gỗ cao hơn những cửa hàng quần áo nhiều lần [1]. Nhiều nghiên cứu tương tự xác định nồng độ FA trong ngành chế biến gỗ tại Trung Quốc cũng đã được thực hiện. Một nghiên cứu thực hiện lấy 104 mẫu không khí trong ngành gỗ công nghiệp cho kết quả nồng độ FA trung bình là 3,07± 5,83mg/m3 với nồng độ thấp nhất là 0,7 và cao nhất lên đến 19,2mg/m3 [4].

3.3. Tỷ lệ người lao động tiếp xúc với FA vượt giới hạn cho phép

                        Bảng 3.Tỷ lệ người lao động tiếp xúc với nồng độ FA vượt giới hạn cho phép

Cơ sở

Tiếp xúc với nồng độ formaldehyde vượt giới hạn cho phép

Tần số (người)

Tỷ lệ (%)

Cơ sở 1

25

4,8

Cơ sở 2

33

6,4

Cơ sở 3

23

4,4

Cơ sở 4

11

2,1

Cơ sở 5

15

2,9

Cơ sở 6

35

6,7

Tổng cộng

142

27,4

Qua bảng trên nhận thấy: có 142 người lao động phơi nhiễm với formaldehyde vượt giới hạn cho phép (>0,5 mg/m3) trung bình 8 giờ theo Quyết định 3733/2002/QĐ-BYT ngày 10/10/2002 của Bộ Y tế với tỷ lệ là 27,4%. Nghiên cứu tại Trung Quốc cũng đã ước tính liều tiếp xúc trung bình của một người bình thường cho kết quả phơi nhiễm trung bình là 0,21mg/m3 mỗi giờ trong một ngày(không bao gồm phơi nhiễm từ thức ăn). Còn đối với người lao động ở các doanh nghiệp có thể phơi nhiễm nghề nghiệp với FA trung bình từ 0,58 đến 0,61mg/m3 mỗi giờ và vượt giới hạn cho phép của Trung Quốc [4]. Nghiên cứu của chúng tôi chưa thu thập được nồng độ FA người lao động tiếp xúc mà chỉ xác định ngưỡng vượt và không vượt giới hạn cho phép trong thời gian suốt ca làm việc.

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1. Kết luận

Có 3 cơ sở (50% cơ sở tham gia nghiên cứu) có nồng độ FA trong môi trường vượt ngưỡng giới hạn là 0,5 mg/m3. Tất cả các mẫu quan trắc vị trí làm việc của người lao động đều phát hiện có formaldehyde, trong đó 142 vị trílao động (27,4%) tiếp xúc với formaldehyde môi trường làm việc có nồng độ vượt giới hạn cho phép(>0.5 mg/m3 trong 8h).

4.2. Kiến nghị

Cần thiết kế hệ thống thông khí phù hợp với hiện trạng của quy trình sản xuất, chọn lựa các loại keo dán gỗ khác đạt tiêu chuẩn cho phép, ứng dụng tự động hoá. Ngoài ra, cần trang bị, hướng dẫn, nhắc nhở người lao động sử dụng các trang thiết bị bảo hộ cá nhân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Đỗ Thị Việt Hương, Mai Văn Hợp, Đỗ Quang Huy, Bùi Văn Năng (2016) “Xác định ô nhiễm fomanđehit trong môi trường không khí tại một số khu vực làm việc thuộc thành phố Hà Nội”. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, 32 (1S), tr. 198-203

[2]. International Agency for Research on Cancer (2004) IARC Monographs on the Evaluation of Carcinogenic Risks to Humans Volume 88 (2006): Formaldehyde, 2-Butoxyethanol and 1-tert-Butoxypropan-2-ol, World Health Organization,

[3]. Mehmet İnci, İsmail Zararsız, Mürsel Davarcı, Sadık Görür (2013) “Toxic effects of formaldehyde on the urinary system”. Turkish Journal of Urology, 39 (1), pp.48-52.

[4]. Xiaojiang Tang, Yang Bai, Anh Duong, Martyn T. Smith (2009) “Formaldehyde in China: Production, consumption, exposure levels, and health effects”. Environment International, 35, pp.1210–1224.

Bs.CK1. Võ Quang Đức

Phân viện Khoa học An toàn Vệ sinh lao động và Bảo vệ Môi trường miền Trung


(Nguồn tin: Vnniosh.vn)