Tình trạng mòn răng hóa học của công nhân Công ty CP Supe Phôt phát và Hóa chất Lâm Thao
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát tình trạng mòn răng hóa học của công nhân công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao (CTy SPPP&HC Lâm Thao).
Nghiên cứu trên 400 công nhân tiếp xúc với a xít và 400 công nhân không tiếp xúc với a xít thuộc CTy SPPP&HC Lâm Thao có tuổi đời từ 18 đến 59. Các bác sỹ chuyên khoa RHM và các điều tra viên tham gia nghiên cứu được huấn luyện định chuẩn trước khi tiến hành nghiên cứu. Tình trạng mòn răng hóa học được đánh giá khám lâm sàng răng hàm mặt. Kiểm định c 2, test anova được áp dụng trong nghiên cứu này.
Kết quả: 91,5% công nhân bị mòn răng trong đó tỷ lệ mòn răng hóa học (MRHH) 22,3%. Mức độ 2,3 phổ biến nhất trong các mức độ MRHH, mức độ 4 tuy có xuất hiện nhưng chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Tỷ lệ MRHH độ 1 chiếm 9,9%, tỷ lệ MRHH độ 2 chiếm 54,3%, MRHH độ 3 chiếm 33,3% và MRHH độ 4 chiếm 2,5%.Tỷ lệ MRHH tăng dần theo số năm công tác, cao nhất ở những công nhân có tuổi nghề >20 năm và thấp nhất là những công nhân có tuổi nghề 2 – 10 năm.Tỷ lệ MRHH cao nhất là XN supe chiếm 22,9%, tiếp đến là XN a xít 17,2% và thấp nhất là XN lân nung chảy 16,7%.
I. MỞ ĐẦU
Miệng là cửa ngõ của đường hô hấp và tiêu hóa, vì vậy là nơi chịu nhiều sự tác động của môi trường bên ngoài, đặc biệt khi đó là một môi trường có nhiều yếu tố nguy cơ (môi trường a xít) thì sẽ dẫn đến nhiều vấn đề về sức khỏe răng miệng như mòn răng, viêm quanh răng, khô miệng, nhạy cảm ngà…
Ở những đối tượng lao động làm việc trong môi trường hóa chất, tỷ lệ mòn răng cao hơn đáng kể so với trong cộng đồng và tình trạng nhạy cảm ngà răng cũng trầm trọng hơn rất nhiều. Nguy cơ gia tăng MRHH liên quan đến nồng độ ngày càng tăng của a xít, thời gian tiếp xúc ngày càng tăng và thời gian công tác. Ngoài ra mức độ trầm trọng của sự MRHH gia tăng với nồng độ ngày càng tăng của hơi a xít.
Nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Ngọc Anh [6] thực hiện trên 271 công nhân CTy Cổ phần Hóa chất Việt Trì năm 2012 cho thấy có 57,9% công nhân có mòn răng. Nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ mòn răng ở nhóm tiếp xúc thường xuyên với a xít cao hơn nhóm không tiếp xúc. Tuy nhiên nghiên cứu này chưa đánh giá được tỷ lệ nhạy cảm ngà ở những đối tượng thường xuyên tiếp xúc với a xít cũng như chưa khảo sát được tỷ lệ tổn thương tổ chức cứng của răng (bao gồm men răng và ngà răng) ở những đối tượng thường xuyên tiếp xúc với a xít. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay ảnh hưởng của hóa chất đến sức khỏe con người đang rất được quan tâm.
Tại Nhật Bản, MRHH đã được công nhận là BNN từ năm 1992 [1]. Tuy nhiên ở Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm và nghiên cứu nhiều và chưa có phương pháp bảo vệ NLĐ thích hợp. Để hướng tới đưa ra quy trình chẩn đoán, giám định BNN về răng miệng, đề tài mong muốn đánh giá ở mức định lượng tình trạng nhạy cảm ngà và các tổn thương tổ chức của răng ở đối tượng tiếp xúc với a xít thường xuyên.
Nhiều nghiên cứu cho thấy những người làm việc trong môi trường hóa chất có tỷ lệ mòn răng cao hơn hẳn trong cộng đồng. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu dịch tễ học nào về tình trạng MRHH răng ở những đối tượng làm việc trong môi trường hóa chất.
II. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá ban đầu tình trạng MRHH của công nhân CTy SPPP&HC Lâm Thao. Cụ thể là xác định tỷ lệ và mức độ trầm trọng của tình trạng MRHH của công nhân CTy, xác định vị trí răng bị MRHH phổ biến nhất ở công nhân CTy SPPP&HC Lâm Thao.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
– Nghiên cứu sử dụng phương pháp cắt ngang mô tả và chọn mẫu là công nhân có tiếp xúc với a xít thuộc CTy SPPP&HC Lâm Thao.
– Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang có so sánh.
Cỡ mẫu nghiên cứu và cách chọn mẫu:
Công thức tính cỡ mẫu:
n = Z21-α/2P(1-P)/d2
Cỡ mẫu tính được n = 374 người. Để đảm bảo đủ số lượng và chất lượng mẫu nghiên cứu, tránh trường hợp đối tượng nghiên cứu bỏ giữa chừng trong quá trình thu thập số liệu, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 400 đối tượng vào nhóm nghiên cứu, 400 đối tượng vào nhóm so sánh.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Tình trạng mòn răng theo đặc điểm đối tượng nghiên cứu (Xem các bảng 1 và 2)
Trên Bảng 1 ta thấy:
– Tỷ lệ mòn răng của cả nhóm nghiên cứu và nhóm so sánh đều cao, trong đó nhóm nghiên cứu cao hơn nhóm so sánh và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
– Tỷ suất chênh OR = 1,75 cho thấy nguy cơ bị mòn răng của nhóm nghiên cứu có tiếp xúc với a xít cao hơn nhóm so sánh không tiếp xúc với xít 1,75 lần. Khoảng tin cậy CI (95%) = [1,09 – 2,83] không chứa giá trị 0 cho thấy sự khác biệt rõ rệt hơn của nguy cơ bị mòn răng của nhóm nghiên cứu có tiếp xúc với a xít và nhóm so sánh.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ mòn răng ở công nhân làm việc trong môi trường a xít là rất cao như:
– Nghiên cứu của Arowojolu MO 2001 [5] so sánh tình trạng mòn răng ở nhóm công nhân tiếp xúc (TX) và không tiếp xúc (KTX) với a xít thấy tỷ lệ răng bị mòn ở nhóm KTX là 23/712 răng (chiếm 3,2%), trong khi tỷ lệ này ở nhóm TX với a xít là 159/388 răng (chiếm 41%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.
– Nghiên cứu của Chikte UM 2005 [6] thấy nguy cơ mòn răng ở những người đàn ông nếm rượu chuyên nghiệp (có hàm lượng a xít tartaric cao) có nguy cơ mòn răng cao gấp 2,5 lần so với nhóm chứng.
– Nghiên cứu của Tuominen M 1991 [7] cho thấy công nhân làm việc trong môi trường a xít có số răng mòn trung bình là 8,02 răng, trong khi ở nhóm chứng là 3,93 răng.
– Nghiên cứu của Fukayo S năm 1999 [12] cho thấy nguy cơ mòn răng ở nhóm TX với a xít gấp 3,0 lần nhóm KTX với a xít.
Kết quả trên Bảng 2 cho thấy, ở cả nhóm nghiên cứu và nhóm so sánh tỷ lệ mòn răng của nam cao hơn nữ, điều này là do tỷ lệ nam trong nghiên cứu của đề tài cao hơn nữ. Sự khác biệt về tỷ lệ mòn răng theo giới ở hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.2. Tình trạng mòn răng hóa học (Xem các bảng 3.4.5.6)
Kết quả trên Bảng 3 cho thấy, nhóm tiếp xúc với a xít tỷ lê tỷ lệ MRHH chiếm 22,3%. Ở nhóm so sánh MRHH chiếm 13,4%.
Kết quả khảo sát MTLĐ CTy CTy SPPP&HC Lâm Thao cho thấy có 1/7 mẫu SO2 và 5/7 mẫu HF vượt TCCP. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Duy Bảo năm 2014 cũng tại CTy này cho thấy: các mẫu CO, HF, H2SO4 đều vượt TCCP. Như vậy các đối tượng ở nhóm nghiên cứu của đề tài có tiếp xúc với các a xít ở nồng độ vượt TCCP. Ở nhóm so sánh mặc dù không phải tiếp xúc với a xít nhưng họ có thói quen thích ăn đồ chua. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy 89,1% đối tượng có MRHH ở nhóm so sánh có thói quen thích ăn đồ chua, trong khi tỷ lệ này ở nhóm nghiên cứu là 64,2%.Vị trí MRHH cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm này. Ở nhóm nghiên cứu, MRHH xảy ra ở cả mặt ngoài và mặt nhai chiếm 66,7%, chỉ mòn mặt nhai chiếm 14,8%, chỉ mòn mặt ngoài chiếm 18,5%. Ở nhóm so sánh vị trí MRHH xảy ra chủ yếu ở mặt nhai (chiếm 86,9%), MRHH mặt ngoài chỉ chiếm 8,7%.
Kết quả của đề tài phù hợp với nghiên cứu của Yuji Sugam, Satoru Takau, Yoshikazu Okawa và Takashi Matsukubo – Trung tâm Dịch tễ và Y tế Công cộng, Đại học Nha khoa Tokyo (1991) nghiên cứu tình trạng răng miệng tại cơ sở sản xuất pin, ác quy của cho thấy tỷ lệ MRHH là 22,5% tính trên tổng số đối tượng nghiên cứu [1].
Cate Bruggen nghiên cứu sự MRHH ở công nhân nhà máy sản xuất nước giải khát cho thấy, có 42% công nhân có MRHH. Nghiên cứu từ 134 công nhân của 1 nhà máy hóa chất tại Osaka cho thấy có 31% công nhân có dấu hiệu của MRHH. Một cuộc khảo sát trên 19 công nhân nếm rượu (taster) tại Thụy Điển cho thấy 78% các đối tượng này có mòn răng, trong đó 11% có MRHH nghiêm trọng làm lộ bề mặt ngà răng [11].
Trong một nghiên cứu cắt ngang tại Nam Phi ở 21 nhà máy sản xuất rượu với những công nhân nếm rượu trên 8,2 năm, mỗi tuần nếm từ 50-150 lần, rượu vang được giữ trong miệng từ 10-30 giây/lần, có 14% đối tượng có MRHH [9].
Kết quả trên Bảng 4 cho thấy, ở nhóm tiếp xúc với a xít số người bị MRHH ở nhóm tuổi nghề trên 20 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (23,7%), tiếp đến là nhóm tuổi nghề >10-20 năm chiếm 17,1% và thấp nhất là nhóm 2- 10 năm chiếm 16,7%.
Kết quả này của đề tài thấp hơn so với nghiên cứu của Yuji Sugam, Satoru Takau, Yoshikazu Okawa và Takashi Matsukubo năm 1991 nghiên cứu tình trạng răng miệng tại cơ sở sản xuất pin, ác quy cho thấy tỷ lệ MRHH rất cao ở những người làm việc trên 10 năm [7], cụ thể:
+ 42,9% cho những người là 10- 14 năm;
+ 57,1% cho những người là 15- 19 năm;
+ 66,7% cho những người làm trên 20 năm.
Kết quả nghiên cứu của Yuji Sugam và cộng sự [7] cũng cho thấy tỷ lệ MRHH tương ứng với MTLĐ có nồng độ a xít sulfuric là:
+ 17,9% ở nồng độ a xít sulfuric 0,5-1 mg/m3 ;
+ 25% ở nồng độ a xít sulfuric 1-4 mg/m3 ;
+ 50% ở nồng độ a xít sulfuric 4-8 mg/m3
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy một mối quan hệ giữa sự xuất hiện của MRHH ở công nhân tiếp xúc với a xít và thời gian tiếp xúc hoặc thời gian làm việc [9,10], các nghiên cứu này khẳng định rằng tỷ lệ của các đối tượng với MRHH và mức độ nghiêm trọng của sự MRHH tăng lên với thời gian dài tiếp xúc hoặc tăng thời gian làm việc từ 1 năm trở lên. Điều này phù hợp với các nghiên cứu được thực hiện bởi Amin WM et al. trong Jorden và Basavaraj et al ở Ấn Độ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ MRHH của công nhân tiếp xúc với a xít ở các nước đang phát triển cao hơn rất nhiều lần so với các nước phát triển. Ở Châu Phi, tỷ lệ MRHH của công nhân tiếp xúc với a xít lên đến 100%, trong khi chỉ có 8-31% lao động ở châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc bị MRHH môi trường lao động với nồng độ hơi khí độc tương đương. Điều này là do kết quả các biện pháp bảo hộ lao động không đủ để làm giảm tiếp xúc với a xít hoặc phạm vi các quy định của chính phủ liên quan đến nồng độ tối đa có thể chịu được các tác nhân có khả năng ăn mòn ở nơi làm việc [1].
Kết quả khảo sát quy trình sản xuất của CTy SPPP&HC Lâm Thao cho thấy quá trình cải tạo, mở rộng sản xuất, CTy đã chú ý đầu tư vào việc xử lý các nguồn ô nhiễm. Đặc biệt CTy đã cải tạo, đổi mới quy trình công nghệ sản xuất a xít, sản xuất a xít sunfiric trực tiếp từ lưu huỳnh nguyên chất theo quy trình khép kín, thu hồi tối đa khí SO2, SO3. 100% công nhân được trang bị PTBVCN (quần áo, khẩu trang, mũ, găng tay). Có 68% công nhân cho rằng chất lượng của các trạng thiết bị này chỉ nằm ở mức độ trung bình.
Bên cạnh việc cải tạo dây chuyền công nghệ, khắc phục việc gây ô nhiễm lại xuất hiện những yếu tố mới đó là: CTy ngày càng mở rộng sản xuất, nâng công suất và sản lượng. Điều đó đồng nghĩa với mức thải sẽ tăng lên. Hiện nay sản lượng đã tăng gấp khoảng 6 lần so với thiết kế ban đầu [4].
Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cũng thấy rằng mặc dù nồng độ hơi khí độc không vượt TCCP nhưng việc tiếp xúc lâu dài với các chất này sẽ gây những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của NLĐ có tiếp xúc. Nghiên cứu của John Gamble và cộng sự trên 199 công nhân sản xuất pin cho thấy ảnh hưởng mạn tính liên quan đến nồng đô phơi nhiễm của a xít sulphuric với các mức độ mòn răng [10] (Xem Bảng 5).
Kết quả trên Bảng 5 cho thấy, với nồng độ H2SO4 phơi nhiễm trung bình 0,23 mg/m3 trong thời gian làm việc 4 tháng sẽ bắt đầu xuất hiện MRHH, mòn răng độ 1 xuất hiện sau 252 tháng làm việc tương ứng với nồng độ H2SO4 phơi nhiễm trung bình 0,07 mg/m3, khi nồng độ phơi nhiễm tăng lên 0,35 mg/m3 thời gian xuất hiện MRHH độ 1 sẽ giảm xuống 68 tháng, MRHH độ 2 sẽ xuất hiện sau 30 tháng làm việc vớinồng độ H2SO4 phơi nhiễm trung bình 0,23 mg/m3 và MRHH độ 3 sẽ xuất hiện sau 82 tháng làm việc vớinồng độ H2SO4 phơi nhiễm trung bình 0,42 mg/m3.
Kết quả nêu trên Bảng 6 cho thấy,trong 81 đối tượng có MRHH thì:
– 54,3% đối tượng có mòn độ 2;
– 33,2% có mòn độ 3;
– Chỉ có 2,5% đối tượng có mòn độ 4 và 9,9% có mòn độ 1.
Kết quả của đề tài phù hợp với nhiều nghiên cứu khác thấy MRHH gặp từ mức độ 1 đến 3, như nghiên cứu của Adeleke Oginni, hay nghiên cứu của Munoz và cộng sự, trên 1/3 số bệnh nhân MRHH (33,7%) có mòn răng nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu của Dr.RohitAgrawal (2014) nghiên cứu trên 138 công nhân sản suất pin tại Ấn Độ, trong đó có 85 người có tiếp xúc với hơi a xít sunfuric cho thấy 74,1% có MRHH, trong đó 9,4% có mòn mức độ 1; 20% có mòn độ 2; 29,4% có mòn mức độ 3 và 15,3% có mòn độ 4 [9]
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy: “Nhận xét mòn răng ở bệnh nhân trào ngược dạ dày–thực quản” năm 2014 cho thấy MRHH chủ yếu ở mức độ 1, các răng hàm lớn hàm dưới hay gặp mòn ở mức độ 1 (32%), mòn mức độ 2 chỉ chiếm 5%. Trong khi đó, ở nhóm răng hàm lớn hàm trên chỉ thấy mòn hóa học mức độ 1 (21%). Mòn mức độ 1 cũng gặp chủ yếu ở nhóm răng cửa-nanh hàm trên (28%). Các nhóm răng khác nhìn chung ít gặp MRHH hơn [8].
Tỷ lệ MRHH khác nhau giữa các nghiên cứu có thể do sự khác nhau về chủng tộc hay độ tuổi của các đối tượng nghiên cứu, tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh hay các yếu tố cá nhân khác, sự khác nhau về cơ chế bảo vệ của từng cá thể (pH nước bọt, dòng chảy nước bọt, khả năng đệm của nước bọt), hoặc do sự góp mặt của nguồn a xít nội sinh (trào ngược dạ dày) hay a xít ngoại sinh do tiếp xúc với hơi a xít trong môi trường lao động gây phá hủy cấu trúc răng.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
– 91,5% công nhân bị mòn răng trong đó tỷ lệ mòn răng hóa học chiếm 22,3%. Mức độ 2,3 phổ biến nhất trong các mức độ mòn răng hóa học, mức độ 4 tuy có xuất hiện nhưng chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Tỷ lệ mòn răng hóa học tăng dần theo số năm công tác, cao nhất ở những công nhân có tuổi nghề >20 năm và thấp nhất là những công nhân có tuổi nghề 2 – 10 năm.
– Đối với các đối tượng có mòn răng hóa học độ 3, độ 4 cần được tư vấn, hỗ trợ điều trị (trám răng, điều trị tủy, làm chụp bọc).
– Đối với các cá nhân có nguy cơ mòn răng hóa học nghề nghiệp cao nên thực hiện các biện pháp dự phòng sau: Thường xuyên khám răng định kỳ 3 tháng/lần để phát hiện sớm các tổn thương và kịp thời điều trị. Đeo thiết bị bảo hộ lao động như khẩu trang chuyên dụng trong khi làm việc được coi là chiến lược phòng ngừa giúp giảm nguy cơ mòn răng hóa học. Xúc miệng bằng dung dịch kiềm magnesium hydroxide hoặc sodium bicarbonate để trung hòa dịch a xít sau khi tiếp xúc với hơi a xít.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Yuji Suyama (2010), “Dental Erosion in Workers Exposed to Sulfuric Acid in Lead Storage Battery Manufacturing Facility “, Tokyo Dent Coll, Japan, pp.77–83.
- Robin Onchardson, David G. Gllam (2006), “Managing dentin hypersensitivity”, J Am Dent Assoc, vol. 37, no. 7, pp.990- 998.
- AminWM,AlOmoushSA,HattabFN (2001), “Oralhealthstatus ofworkersexposedtoacidfumesinphosphateandbattery industriesinJordan”,IntDentJ, pp. 169–174.
- Nguyễn Duy Bảo (2014), “Nghiên cứu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe, bệnh tật của cộng đồng dân cư khu vực Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao. Đề xuất giải pháp khắc phục”. Đề tài độc lập cấp nhà nước, Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường.
- Arowojolu MO. Erosion of tooth enamel surfaces among battery chargers and automobile mechanics in Ibadan: a comparative study. Afr J Med Med Sci. 2001 Mar-Jun;30(1-2):5- 8.
- Chikte UM, Naidoo S, Kolze TJ, Grobler SR. Patterns of tooth surface loss among winemakers. SADJ. 2005 Oct;60(9):370-4.
- Tuominen M, Tuominen R. Dental erosion and associated factors among factory workers exposed to inorganic acid fumes. Proc Finn Dent Soc. 1991;87(3):359-64
- Nguyễn Thu Thủy (2014): “Nhận xét mòn răng ở bệnh nhân trào ngược dạ dày–thực quản”, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
- Dr.RohitAgrawal(2014),“AssessmentofdentalerosionstatusamongbatteryfactoryworkersinMandideep,India”.
- John Gamble và CS, (1983), “Chronic effects of sulphuric acid on the respiratory system and teeth”. National institute for Occupational Safety and Health, Division of Respiratory Disease Studies, 944 Chestnut Ridge Road, Morgantown, West Virginia 26505, and *Department of Community Dentistry, West Virginia University, Morgantown, West Virginia 26506
- Cate Bruggen, (1968), “Dental erosioninindustry”. BrJ IndustrMed; 25:249-66.
- FukayoS, Nonaka K, Shinozaki T,Motohashi M, YanoT(1999) “Prevalenceofdentalerosion caused bysulfuric acidfumes inasmelter in Japan.” Occup Health41:88–94.
Ths. BS. Vũ Thị Ngọc Anh
Viện BHLĐ
(Nguồn tin: Nilp.vn)