Công tác an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp giao thông đường bộ hiện nay – Thực trạng và giải pháp

Thứ Sáu, 04/10/2024, 04:34(GMT +7)

Giao thông đường bộ là bộ phận quan trọng của ngành giao thông vận tải – một ngành sản xuất vật chất quy mô lớn, cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách cho tất cả các ngành kinh tế khác và phục vụ đời sống dân cư. Các nguy cơ tiềm ẩn gây tai nạn cho NLĐ trong các doanh nghiệp giao thông đường bộ có khá nhiều, đòi hỏi phải có giải pháp hạn chế, khắc phục.

Nhiều nguy cơ tiềm ẩn

Giao thông vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, không những trực tiếp tạo ra giá trị và giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất của nó, mà còn tạo điều kiện giao lưu sản phẩm – điều kiện tiên quyết để kinh tế thị trường phát triển. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khi các điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông chưa phát triển đầy đủ, thì giao thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng càng có vai trò quan trọng.

Giao thông vận tải có 5 loại hình cơ bản: Giao thông đường sắt, giao thông đường bộ, giao thông đường thủy, giao thông đường hàng không, giao thông bằng đường ống (đường ống vận chuyển nhiên liệu, nguyên liệu rời…), trong đó, giao thông đường bộ chiếm tỷ trọng lớn về giá trị sản xuất, và có tầm quan trọng hàng đầu vì rất thuận tiện cho người sử dụng, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách, điều các loại hình giao thông khác không thể thực hiện.

Các doanh nghiệp giao thông đường bộ gồm hai loại hình chính: Doanh nghiệp vận tải đường bộ và doanh nghiệp xây dựng đường bộ. Dù thuộc loại hình nào thì các doanh nghiệp giao thông đường bộ nói chung đều hoạt động trong môi trường khắc nghiệt, nhiều rủi ro; đều sử dụng các máy móc, phương tiện có yêu cầu kiểm định nghiêm ngặt, có nguy cơ gây tai nạn cho mình và cho người khác nên phải đặc biệt chú trọng đảm bảo ATVSLĐ.

Các nguy cơ tiềm ẩn gây tai nạn cho NLĐ trong doanh nghiệp giao thông đường bộ khá nhiều, đó là các tai nạn liên quan đến vận hành máy móc phức tạp, như cần cẩu, xe ô tô (nhất là xe ô tô tải, xe ô tô khách, xe đầu kéo…), máy xây dựng, tai nạn làm việc trên cao, tai nạn giao thông… Nguy cơ gây bệnh nghề nghiệp cũng lớn, do NLĐ làm việc ở một tư thế lâu dài, làm việc trong không gian hẹp (lái xe, lái cần cẩu…), làm việc trong môi trường bụi bẩn, độ ồn, độ rung cao (công nhân cầu đường), làm việc đòi hỏi độ tập trung cao dễ gây stress (vận hành phương tiện cơ khí)…

Tốc độ phát triển nhanh đi đôi với tai nạn nhiều

Trong hơn 30 năm đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, các doanh nghiệp giao thông đường bộ Việt Nam đã có sự phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, giai đoạn từ 2010 đến năm 2018, doanh nghiệp giao thông đường bộ có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng, số NLĐ và vốn kinh doanh.

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

2010

2015

2016

2017

2018

1. Doanh nghiệp vận tải

 

 

 

 

 

 

Số doanh nghiệp

Doanh nghiệp

9.031

16.409

18.277

20.584

28.772

Số lao động

Người

296.157

331.818

350.591

347.922

398.262

Vốn kinh doanh

Tỷ đồng

90.823

201.479

220.557

260.674

298.262

2. Doanh nghiệp xây dựng

 

 

 

 

 

 

Số doanh nghiệp

Doanh nghiệp

 

 

101.673

108.636

112.415

Số lao động

Người

 

 

1.919.447

1.858.922

1.679.718

Vốn kinh doanh

Tỷ đồng

 

 

574.684

633.250

828.873

Nguồn: Niên giám thống kê 2019, tr.332,341.

Trước khi chuyển sang kinh tế thị trường, đa phần các doanh nghiệp giao thông đường bộ Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước về giao thông đường bộ đã được cơ cấu, chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Đa số doanh nghiệp giao thông đường bộ – nhất là các doanh nghiệp vận tải hàng hóa – thuộc sở hữu tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức pháp lý của các doanh nghiệp giao thông đường bộ cũng khá đa dạng, trong đó đa phần là các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có chế độ sở hữu hỗn hợp, ngoài ra còn có các doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể (hợp tác xã vận tải), doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp giao thông đường bộ cũng phân bổ đều khắp ở các địa phương nhưng có mật độ dày nhất ở các địa phương có trình độ phát triển kinh tế cao như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…

Trong những năm qua, các doanh nghiệp giao thông đường bộ đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong thực hiện phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đã đầu tư mua sắm các phương tiện vận tải đáp ứng yêu cầu kiểm định, tuân thủ các điều kiện kiểm định máy móc, thiết bị; tập huấn cho NLĐ và có chính sách chăm sóc sức khỏe tại nơi làm việc cho NLĐ…

Tuy nhiên, tốc độ giảm các vụ tai nạn lao động còn chậm, số người mắc bệnh nghề nghiệp phải tiến hành điều trị cũng giảm chậm. Nhiều doanh nghiệp vẫn để xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng, trong đó có tai nạn lao động gây chết người. Trong 10 năm qua, bình quân mỗi năm có gần 10.000 người chết vì tai nạn giao thông, đa số người bị tai nạn đang trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông chủ yếu do người tham gia giao thông gây ra (chiếm 80%), trong đó 22,9% chạy quá tốc độ quy định, 14% vượt sai quy định, 3,8% lái xe trong tình trạng say rượu, bia…

Nỗ lực bước đầu và nhiều bất cập, hạn chế

Từ khi Luật ATVSLĐ được ban hành, công tác quản lý nhà nước về ATVSLĐ trong các doanh nghiệp giao thông đường bộ đã thu được những thành công nhất định.

Kết quả khảo sát NLĐ cho thấy, tỷ trọng doanh nghiệp giao thông đường bộ có phòng/ ban quản lý chuyên trách về ATVSLĐ chiếm 53,7%; bán chuyên trách chiếm 45,9%. Ý kiến của cán bộ quản lý phòng ban cho rằng, số doanh nghiệp giao thông đường bộ có bộ phận chuyên trách chiếm 66,7%; không chuyên trách là 33,3%. Có sự khác biệt tỷ lệ trên là do NLĐ có vị thế nhận diện thiếu toàn diện hơn cán bộ quản lý, nên không đầy đủ so với cán bộ quản lý chuyên trách ATVSLĐ nằm trong các phòng ban. Song, cả hai nhóm ý kiến đều khẳng định số doanh nghiệp có bộ phận quản lý chuyên trách lĩnh vực ATVSLĐ chiếm tỷ trọng khá cao. Điều này cho thấy các doanh nghiệp giao thông đường bộ đã bước đầu nhận thấy sự cần thiết phải có bộ phận quản lý chuyên trách lĩnh vực ATVSLĐ.

Tuy nhiên, cơ chế giám sát, kiểm tra xử lý còn bị xem nhẹ. Việc khen thưởng, động viên chưa kịp thời, chậm đổi mới về tiêu chí, hình thức và nội dung. Công tác thống kê, báo cáo chưa được thực hiện nghiêm túc, gây khó khăn cho công tác đánh giá, chỉ đạo. Thanh tra ATVSLĐ nằm trong thanh tra chung nên còn nhiều bất cập, hạn chế. Nguồn lực cho công tác thanh tra về ATVSLĐ, lực lượng thanh tra lao động có chuyên môn kỹ thuật để triển khai thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ ngày càng ít, có địa phương không có. Công tác nghiên cứu, hỗ trợ doanh nghiệp giao thông đường bộ ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực ATVSLĐ còn hạn chế.

Giao thông đường bộ có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường, góp phần đưa hàng hóa và con người đến mọi địa bàn trong cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Mặc dù nhà nước đã có nhiều bước phát triển trong công tác quản lý và giảm thiểu tình trạng tai nạn trên các công trường xây dựng đường bộ và do các phương tiện vận chuyển hàng hóa, vận chuyển hành khách của các doanh nghiệp giao thông đường bộ gây ra, nhưng cho đến nay, tình trạng tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam vẫn còn trầm trọng.

Đề xuất giải pháp

Nhà nước, các cơ quan chức năng cần ban hành văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể, thống nhất về quản lý ATVSLĐ cho doanh nghiệp giao thông đường bộ. Cập nhật, bổ sung các quy định về ATVSLĐ phù hợp với thực tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong quản lý ATVSLĐ lĩnh vực giao thông đường bộ.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, trong đó chú trọng cả thanh tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất đối với doanh nghiệp giao thông đường bộ về việc chấp hành pháp luật về ATVSLĐ. Áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật về ATVSLĐ. Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra để răn đe, giáo dục các doanh nghiệp.

Tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm tuân thủ pháp luật ATVSLĐ cho cán bộ, công chức, NLĐ trong doanh nghiệp giao thông đường bộ. Nâng cao nhận thức của người đứng đầu doanh nghiệp giao thông đường bộ về vai trò, trách nhiệm trong đảm bảo ATVSLĐ cho NLĐ. Phổ biến kiến thức về ATVSLĐ cho NLĐ, trang bị cho họ kỹ năng, phương tiện bảo vệ cá nhân phù hợp.

Tài liệu tham khảo:

  1. Hà Tất Thắng, “Đổi mới công tác ATVSLĐ để hội nhập và phát triển bền vững”, Tạp chí Lao động và Xã hội (ISSN 0886-7643), (470 + 471), tr.47-48.
  2. Nguyễn Bá Dũng, Nguyễn Đình Thám, Nguyễn Văn Tín (2001), Kỹ thuật ATVSLĐ trong xây dựng, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
  3. Bộ LĐ-TB&XH (2016), Luật ATVSLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành, NxB Lao động, Hà Nội.
  4. Bộ LĐ-TB&XH (2007), Sổ tay ATVSLĐ trong xây dựng, Nxb Lao động, Hà Nội.
  5. Bộ LĐ-TB&XH (2012), Chiến lược ATVSLĐ ở Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015 và tầm nhìn 2020, Hà Nội.
  6. Bộ LĐ-TB&XH và ILO (2011), Kết quả khảo sát về ATVSLĐ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

TS. Đàm Khắc Cử – ThS. Phạm Phương Lan

Trường Đại học Công đoàn

Nguồn: Theo Tạp chí An toàn vệ sinh lao động số 349 (Tháng 8/2024)