Phương pháp sơ đồ nguy cơ
Đối với mỗi tình trạng nguy hiểm, mỗi loại nên được phân cấp cho mỗi thông số. Đường đi trên sơ đồ nguy cơ được xuất phát từ điểm khởi đầu. Tại mỗi điểm, đường đi tiếp tục trên nhánh thích hợp phù hợp với loại được lựa chọn. Các điểm của nhánh cuối cùng đi tới mức hoặc chỉ số gắn với sự kết hợp của các loại (nhánh) đã được lựa chọn. Kết quả cuối cùng là một mức hoặc chỉ số nguy cơ được hạn chế bởi các thuật ngữ như “cao”, “trung bình”, “thấp”, một số, ví dụ, từ 1 đến 6 hoặc một chữ cái, ví dụ, từ A đến F.
Các sơ đồ nguy cơ được dùng để minh họa lượng giảm nguy cơ được cung cấp bởi biện pháp bảo vệ và bởi thông số nguy cơ chịu tác động của biện pháp bảo vệ này.
Các sơ đồ nguy cơ sẽ trở nên rất cồng kềnh và phức tạp nếu có nhiều hơn hai nhánh cho nhiều hơn một thông số nguy cơ. Vì lẽ đó, các phương pháp hỗn hợp sẽ kết hợp một số sơ đồ nguy cơ với một ma trận cho một trong các thông số (Xem Phương pháp hỗn hợp).
Trước khi dự đoán nguy cơ bằng sơ đồ nguy cơ cần mô tả mối nguy hiểm có liên quan, tình trạng nguy hiểm, sự kiện nguy hiểm và tổn hại có thể có. Sau đó tính toán chỉ số nguy cơ khi sử dụng sơ đồ nguy cơ được cho trên hình Sơ đồ nguy cơ để dự đoán nguy cơ dựa trên bốn thông số dưới đây tương ứng với bốn yếu tố nguy cơ được xác định và mỗi yếu tố nguy cơ có các giới hạn riêng của nó.
Hình: Sơ đồ nguy cơ để dự đoán nguy cơ
Ví dụ này giới thiệu việc ứng dụng phương pháp nhận biết các mối nguy hiểm và dự đoán nguy cơ sử dụng sơ đồ nguy cơ đối với một máy hoạt động gia công đơn giản đã được lắp đặt; nguy cơ đã được dự đoán hai lần, trước khi lựa chọn các biện pháp bảo vệ và sau khi đã thực hiện các biện pháp bảo vệ.
a. Thông số sự nghiêm trọng của tổn hại: S
– S1: bị thương nhẹ (thường chữa khỏi), ví dụ, các vết xước, vết rách, vết tím, vết thương nhẹ cần có sự cứu chữa ban đầu.
– S2: bị thương nặng (thường không chữa được hoàn toàn, bao gồm cả tử vong), ví dụ, bị gãy hoặc bị rách hoặc bị dập nát tay, chân, bị gãy xương, các thương tích nặng cần phải khâu, đau các cơ bắp, tử vong.
b. Thông số tần suất và/hoặc khoảng thời gian bị phơi ra trước mối nguy hiểm: F.
– F1: hai hoặc ít hơn hai lần trong một ca làm việc hoặc tổng thời gian phơi ra trong một ca làm việc ít hơn 15 phút.
– F2: nhiều hơn hai lần trong một ca làm việc hoặc tổng thời gian phơi ra trong một ca làm việc dài hơn 15 phút.
c. Thông số khả năng xảy ra sự kiện nguy hiểm: O
– O1: công nghệ thành thục đã được chứng minh và thừa nhận trong ứng dụng về an toàn; vững chắc.
– O2: hư hỏng về kỹ thuật được quan sát trong hai năm cuối cùng:
– Hoạt động không thích hợp của con người bởi một người đã được đào tạo tốt, nhận dạng được mối nguy hiểm, các nguy cơ và có kinh nghiệm làm việc tại trạm gia công trên sáu tháng.
– O3: hư hỏng về kỹ thuật được quan sát thường xuyên (6 tháng/ lần):
+ Hoạt động không thích hợp của con người bởi một người chưa được đào tạo, có kinh nghiệm làm việc tại trạm gia công ít hơn sáu tháng;
+ Sự cố tương tự được quan sát trong nhà máy từ trước 10 năm.
d. Thông số khả năng tránh hoặc giảm tổn hại: A
A1: có thể trong một số điều kiện:
+ Nếu các bộ phận chuyển động ở vận tốc nhỏ hơn 0,25m/s và người công nhân bị phơi ra biết rõ các nguy cơ và có các chỉ báo tình trạng nguy hiểm hoặc sự kiện nguy hiểm sắp đến;
+ Phụ thuộc vào các điều kiện riêng (nhiệt độ, tiếng ồn, ecgônômi…).
A2: không thể
Sơ đồ nguy cơ để dự đoán nguy cơ đã được điền đầy kết quả đánh giá nguy cơ lần thứ nhất này, với mỗi tình trạng nguy hiểm được phân cho một chỉ số nguy cơ. Ở đây việc dự đoán mỗi tình trạng nguy hiểm được thực hiện cần quan tâm đến các yêu cầu sau:
– Một chỉ số nguy cơ 1 hoặc 2 tương ứng với quyền ưu tiên thấp nhất của hoạt động (quyền ưu tiên 3);
– Một chỉ số nguy cơ 3 hoặc 4 tương ứng với quyền ưu tiên trung bình của hoạt động (quyền ưu tiên 2);
– Một chỉ số nguy cơ 5 tương ứng với quyền ưu tiên cao nhất của hoạt động (quyền ưu tiên 1).
Cần quan tâm đến các phương tiện có thể giảm nguy cơ và sau đó dự đoán nguy cơ cho thiết kế lần cuối cùng khi sử dụng cùng một sơ đồ nguy cơ theo cùng một cách như đối với thiết kế ban đầu. Trong trường hợp riêng này chỉ số nguy cơ 2 hoặc nhỏ hơn đã được đánh giá mức như là đại diện cho mức tại đó không có yêu cầu giảm nguy cơ thêm nữa.
——————
Tham khảo thêm các phương pháp khác để đánh giá nguy cơ:
– Phương pháp ma trận nguy cơ;
– Phương pháp cho điểm nguy cơ;
– Phương pháp dự đoán nguy cơ theo định lượng;
– Phương pháp hỗn hợp.
TS. Nguyễn Thế Công
(Nguồn tin: Theo cuốn Bảo hộ lao động, Chủ biên PGS.TS. Nguyễn An Lương, NXB Lao động – 2012)