Các ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật
Mức độ gây độc của nhóm chất gây nhiễm độc nồng độ phụ thuộc vào lượng thuốc xâm nhập vào cơ thể. Ở dưới liều gây tử vong, thuốc dần dần bị phân giải rồi bài tiết ra ngoài cơ thể. Thuộc nhóm gây độc nồng độ là các hợp chất Pyrethroid, nhiều hợp chất lân hữu cơ, cacbamat, các hợp chất có nguồn gốc sinh học…
Chất gây nhiễm độc tích luỹ là các chất có khả năng tích luỹ lâu trong cơ thể, lượng chất đó tích luỹ ngày càng nhiều lên theo thời gian tới mức có thể gây những biến đổi sinh lý có hại cho cơ thể sống. Thuộc nhóm này là các hợp chất Clo hữu cơ, các hợp chất chứa thuỷ ngân (Hg), asen (As), chì (Pb)…
Sự tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV có thể dẫn tới những rối loại tim mạch, các triệu chững nhiễm độc thần kinh, bệnh máu và bệnh da. Các triệu chứng trên có thể ở mức nhẹ hay nặng tuỳ thuộc vào thời gian tiếp xúc, số lần tiếp xúc và thời gian nghỉ ngơi sau mỗi lần tiếp xúc…Nhiều nông dân do không biết đầy đủ về tác động của thuốc BVTV nên đôi khi đã đánh giá cao ích lợi của nó và dẫn đến sử dụng thuốc bừa bãi.
a. Các ảnh hưởng tới mắt
Mắt rất dễ bị tổn thương do các yếu tố nguy hiểm vật lý và hoá học trong môi trường sản xuất nông nghiệp. Vài loại thuốc BVTV như 2,4D và các axetamit có tác dụng gây kích thích mắt. Khi người nông dân sử dụng axetamit và 2,4D chừng 5 năm thì tác dụng gây kích thích mắt mãn tính có thể dẫn tới việc tạo mộng trong mắt và một màng mạch máu nhỏ trên giác mạc, một bệnh chứng thường xuât hiện ở người già và người tiếp xúc nhiều với gió bụi. Khi tổn thương trở nên trầm trọng thì màng mạch máu đó có thể che phủ mắt làm giảm thị lực và cần phải điều trị. Chứng bệnh mộng mắt có thể làm hạn chế năng suất lao động do thị lực bị suy giảm.
b. Các ảnh hưởng tới da
Thuốc BVTV đi vào cơ thể chủ yếu là qua da chứ không phải đường hô hấp. Quá trình trộn thuốc và phun thuốc gây nên mối nguy hại sức khoẻ lớn hơn cả. Đối với người phun thuốc, mức độ tiếp xúc với thuốc của da cao hơn so với đường hô hấp. Khi phun hoặc rắc thuốc, lượng thuốc bám lên da do tiếp xúc cao gấp từ 20- 1700 lần lượng đi qua đường hô hấp. Mức độ nhiễm bẩn da tỷ lệ với nồng độ của thuốc và khoảng cách từ chỗ khảo sát tới chỗ phun. Lượng thuốc bám lên da thay đổi theo điều kiện lao động, kỹ thuật sử dụng, chất lượng phương tiện bảo vệ cá nhân sử dụng và thời gian tiếp xúc.
Mức nhiễm bẩn da khi phun bằng bình phun đeo lưng sẽ lớn hơn so với dùng bình phun kiểu đĩa hay bình phun chạy điện. Bàn tay và cẳng tay dễ bị nhiễm bẩn nhất do thuốc BVTV. Trong số thuốc BVTV dùng trong chăm sóc lúa thì 2,4D, Clo hữu cơ và axetamit có tác dụng gây kích thích nhẹ trên da.
c. Ảnh hưởng tới đường hô hấp.
Một vài loại thuốc BVTV như Pyrethroid và 2,4D thường gây kích thích phổi và đường hô hấp trên. Việc tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV có thể gây nên các triệu chứng hô hấp như ho, cảm giác ớn lạnh, sinh đờm, tiếng ran trong phổi, thở yếu và giảm thông khí phổi. Bệnh phổi chớm mắc có thể phát hiện bằng cách kiểm tra sức khoẻ toàn diện. Bệnh hen phế quản và những phát hiện bất thường khác ở phổi là hai dấu hiệu bệnh đường hô hấp khi tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV.
d. Ảnh hưởng hệ thống tim mạch.
Khi bị nhiễm độc cấp tính do thuốc BVTV, tim có thể bị tổn thương do ảnh hưởng trực tiếp lên cơ tim hoặc là do kết quả của sự thiếu oxy tế bào. Sự xơ hoá thành mạch máu sẽ làm tăng huyết áp. Do vậy người tiếp xúc lâu ngày với thuốc BVTV có thể mắc bệnh huyết áp cao.
Lân hữu cơ được liệt vào số các chất gây nên tổn thương cơ tim hay tổn thương hệ thống mạch máu. Những tổn thương đó được biểu hiện qua những thay đổi trên điện tim đồ.
e. Các ảnh hưởng tới đường ruột
Thuốc BVTV thường xâm nhập vào đường ruột ngẫu nhiên qua miệng. Điều đó xảy ra khi không tuân thủ các nguyên tắc an toàn trong lúc làm việc với thuốc BVTV như hút thuốc trong khi phun, không rửa tay trước khi ăn, uống. Thuốc cacbamat thường được đóng trong hỗn hợp với rượu metylíc; khi hỗn hợp thuốc xâm nhập vào đường ruột có thể gây kích thích ruột dữ dội. Khi cho động vật thí nghiệm uống liều lớn 2,4D và các chất Clo hữu cơ có thể thấy xuất hiện các triệu chứng kích thích nhẹ đường ruột, gây buồn nôn, tiêu chảy và loét miệng. Các chất lân hữu cơ và các muối của đồng cũng gây kích thích đường ruột, gây buồn nôn dữ dội, gây nôn và tiêu chảy. Biểu hiện của bệnh viêm dạ dày mãn tính do tiếp xúc với thuốc BVTV được đặc trưng với các triệu chứng lâm sàng là sự mẫn cảm của thượng vị và các cơn đau kèm theo nôn và buồn nôn.
g. Ảnh hưởng thần kinh.
Các hợp chất lân hữu cơ và 2,4D là các chất độc thần kinh. Cả hai chất này đều gây các bệnh đa thần kinh, một loại bệnh thần kinh có những biểu thị điển hình là đau mỏi cơ bắp và mất cảm giác. Việc giảm phản xạ sâu của cơ ở các giai đoạn sớm có thể chỉ là dấu hiệu, việc mắc bệnh thần kinh có thể gây co giật và hôn mê.
Sự giảm phản xạ cục bộ cùng là một dấu hiệu ảnh hưởng thần kinh do tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV loại lân hữu cơ.
h. Ảnh hưởng tới các thành phần máu.
Bệnh thiếu máu do ngừng sinh sản được phát hiện thấy ở một số nông dân Philipin được xem là một bệnh gây nên do tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV. Nó biểu hiện ở sự giảm toàn thể hồng huyết cầu tạo nên máu. Bệnh thiếu lympho bào, chứng giảm bạch cầu ưa eosin, chứng giảm bạch cầu trung tính và chứng giảm huyết sắc tố là các hậu quả có thể thấy ở người tiếp xúc lâu dài với thuốc BVTV. Thuốc Chlordan và các loại Clo hữu cơ đồng thời gây nên một vài trường hợp của loại bệnh thiếu nguyên hồng cầu khổng lồ sau các giai đoạn tiếp xúc với thuốc BVTV ở mức nồng độ thấp kéo dài.
Hậu quả trước hết là ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người trực tiếp dùng thuốc chính là người lao động cụ thể hơn là bà con nông dân, nhất là trong những trường hợp không có dụng cụ phòng độc đầy đủ, sử dụng thuốc không đúng, hoặc nếu lạm dụng thuốc BVTV sẽ dẫn đến những tai hại về nhiều mặt mà hậu quả xấu khó có thể lường hết được.
(Nguồn tin: Theo: Tài liệu huấn luyện (dự án APHEDA-NILP trong ngành trồng Chè))