Biến đổi một số chỉ tiêu tâm sinh lý của nhân viên y tế tại một bệnh viện sản tuyến trung ương
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành nhằm tìm hiểu biến đổi một số chỉ tiêu tâm sinh lý của nhân viên y tế (y, bác sĩ) tại một bệnh viện sản tuyến trung ương. 318 nhân viên y tế với tuổi đời trung bình 35,8±7,4 tuổi và thâm niên nghề 11,4±7,1 năm đã được phân tích đặc điểm điều kiện lao động và đo một số chỉ số tâm sinh lý (tần số nhịp tim, thời gian phản xạ thị vận động đơn giản, tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn (CFF) và test trí nhớ ngắn hạn) trước và sau ca lao động.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Điều kiện lao động của các nhân viên chuyên ngành sản có nhiều yếu tố đặc thù: Môi trường lao động có nhiều yếu tố bất lợi với sức khỏe, nguy cơ lây nhiễm cao, cường độ làm việc căng thẳng, áp lực công việc lớn, trách nhiệm công việc cao, phải trực đêm… Căng thẳng nghề nghiệp là một trong những vấn đề cần được quan tâm ở nhân viên y tế. Tỷ lệ nhân viên y tế có điểm stress ở mức cao là 9,1%; mức trung bình là 61,3% và mức thấp là 29,6%. 70,4% NVYT có biểu hiện stress. 43,4% NVYT kiểm soát tốt stress; 53,1% NVYT kiểm soát stress mức trung bình và có 3,5% NVYT không kiểm soát được stress, cần có biện pháp can thiệp. Sau ca lao động có sự tăng tần số nhịp tim (83,8±7,2 nhịp/phút so với 78,8±7,1 nhịp/phút) (p<0,001); kéo dài thời gian phản xạ thị vận động (276±16ms so với 194±7,3ms) (p<0,001); giảm tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn (35,2±1,8Hz so với 36,0±1,7Hz) (p<0,001); giảm điểm test trí nhớ ngắn hạn (2,8±0,8 điểm so với 3,9±0,9 điểm) – chứng tỏ sự mệt mỏi, căng thẳng thần kinh tâm lý ở nhân viên y tế có liên quan tới lao động.
Các tác giả khuyến nghị cần có biện pháp làm giảm gánh nặng lao động ở nhân viên y tế chuyên ngành sản.
Từ khoá: Nhân viên y tế, sản phụ khoa, tâm sinh lý, căng thẳng nghề nghiệp
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhân viên y tế làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho người bệnh có nguy cơ bị căng thẳng cao hơn nhiều lần so với các ngành nghề khác [6]. Nghiên cứu của Linn LS et al (1985) [8] và Agius RM et all (1996) [5] cho thấy có tới 25% các bác sĩ lâm sàng bị stress, trầm cảm, lo âu và kiệt sức. Những phát hiện của nghiên cứu của D’Ettorre G cho thấy rằng NVYT dường như phải chịu một mức độ căng thẳng nghề nghiệp chủ yếu là do các yếu tố điều kiện làm việc [7]. Theo Romano M et al (2015) [11] một trong những nguyên nhân gây căng thẳng cao nhất là “khối lượng công việc”.
Ở Việt Nam, môi trường và điều kiện lao động của các nhân viên y tế (NVYT) (y, bác sĩ) có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của người lao động. NVYT phải tiếp xúc với các yếu tố độc hại khi làm việc trong phòng xét nghiệm, chịu sức ép về tâm lý (khi phẫu thuật những trường hợp phức tạp, xử trí cấp cứu…), cường độ làm việc cao đặc biệt ở các tuyến trung ương do sự quá tải của bệnh nhân… Trên thực tế, đã có nhiều NVYT có biểu hiện, stress, lo âu, trầm cảm, thậm chí đã có những trường hợp tự tử do áp lực công việc; một số NVYT mắc các bệnh truyền nhiễm do bị lây nhiễm từ bệnh nhân, môi trường làm việc như bệnh viêm gan B, viêm gan C, HIV…
Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu biến đổi một số chỉ tiêu tâm sinh lý của nhân viên y tế (y, bác sĩ) tại một bệnh viện sản tuyến trung ương.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
318 nhân viên y tế (y, bác sĩ) tại một bệnh viện phụ sản tuyến trung ương
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang
2.2.1. Đánh giá điều kiện lao động của nhân viên y tế:
– Quan sát, phân tích các đặc điểm điều kiện lao động đặc thù
– Điều tra bằng phiếu điều tra cá nhân
– Bấm thời gian lao động
2.2.2. Đánh giá stress nghề nghiệp
– Đánh giá mức độ stress bằng bảng tự đánh giá stress dành cho người Châu Á. Thang đánh giá gồm 10 mục và phân loại theo 3 mức: mức điểm thấp, mức điểm trung bình và mức điểm cao
– Đánh giá mức kiểm soát stress nghề nghiệp theo thang đánh giá AIS của Viện nghiên cứu stress (Mỹ). Thang đánh giá gồm 10 mục và phân loại theo 3 mức: kiểm soát stress nghề nghiệp ở mức tốt, kiểm soát stress nghề nghiệp ở mức trung bình và không kiểm soát được stress nghề nghiệp, cần có biện pháp can thiệp.
2.2.3. Đo một số chỉ tiêu tâm sinh lý ở nhân viên y tế
Thời điểm đo: trước và sau ca lao động, gồm:
– Tần số nhịp tim (ghi Holter điện tim trong suốt ca lao động)
– Thời gian phản xạ thị vận động đơn giản
– Tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn (CFF).
– Test trí nhớ ngắn hạn: sử dụng bảng trí nhớ hình
2.2.4. Xử lý số liệu:
Các số liệu nghiên cứu được xử lý theo phương pháp thống kê y học và bằng chương trình phần mềm SPSS 20.0
3. KẾT QUẢ
Tổng số 318 NVYT (y, bác sĩ) với tuổi đời trung bình là 35,8±7,4 (22-57 tuổi) và thâm niên nghề 11,4±7,1 (1-33) năm đã tham gia nghiên cứu. 88,1% trong số NVYT là nữ; số NVYT nam là 11,9%. 28,0% là các bác sĩ và 72,0% là điều dưỡng, nữ hộ sinh
3.1. Đặc điểm công việc, tính chất đặc thù nghề nghiệp của nhân viên y tế chuyên ngành phụ sản
Điều kiện lao động của các NVYT chuyên ngành phụ sản tuyến trung ương khá đặc thù và có nhiều yếu tố công việc gây căng thẳng thần kinh tâm lý :
– Môi trường lao động có nhiều yếu tố bất lợi tới sức khỏe của nhân viên y tế, nguy cơ lây nhiễm cao do phải trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân, máu, nước tiểu, dịch ối… của bệnh nhân (nguy cơ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan B…); ví dụ như tại một bệnh viên ở miền Nam NVYT đã đỡ đẻ cho sản phụ mắc HIV mà ko biết trước
– Áp lực công việc cao: do là tuyến cuối cùng nên số lượng bệnh nhân đông, có nhiều ca bệnh nặng/ ca khó, đòi hỏi phải xử lý khẩn trương, kịp thời trong thời gian ngắn
– Yêu cầu mức độ trách nhiệm rất cao của NVYT trong công việc; đòi hỏi quyết định nhanh, tính chính xác tuyệt đối, không cho phép sai sót do gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới tính mạng con người.
– Phải trực đêm: cũng như các NVYT nói chung, NVYT chuyên ngành phụ sản cũng phải trực đêm, thời gian lao động kéo dài với cường độ làm việc khá căng thẳng và tinh thần trách nhiệm rất cao.
3.2. Điểm tự đánh giá stress
Kết quả đánh giá cho thấy có 29,6 NVYT có điểm stress ở mức thấp; 61,3% NVYT có điểm stress ở mức trung bình và 9,1% NVYT có điểm stress ở mức cao. Tỷ lệ NVYT có biểu hiện stress là 70,4%.
43,4% NVYT kiểm soát tốt stress nghề nghiệp; 53,1% NVYT kiểm soát stress mức trung bình và có 3,5% NVYT không kiểm soát được stress, cần có biện pháp can thiệp.
3.2. Biến đổi một số chỉ tiêu tâm sinh lý của nhân viên y tế sau ca lao động
Tần số nhịp tim trung bình đầu ca lao động là 78,8±7,1 nhịp/phút; cuối ca lao động là 83,8±7,2 nhịp/phút. Như vậy có sự tăng tần số nhịp tim sau ca lao động so với trước ca lao động ở NVYT (p<0,001). Tần số nhịp tim trong ca lao động ở NVYT là 89,9±8,7 nhịp/phút.
Có sự kéo dài thời gian phản xạ của NVYT sau ca lao động so với trước ca lao động (thời gian phản xạ thị – vận động trung bình đầu ca lao động của các nhân viên là 194±7,3ms; thời gian phản xạ thị – vận động trung bình cuối ca lao động là 276±16ms (p<0,001)).
Có sự giảm chỉ số tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn của NVYT sau ca lao động so với trước ca lao động (35,2±1,8Hz so với 36,0±1,7Hz) (p<0,001), chứng tỏ sự mệt mỏi, căng thẳng thần kinh tâm lý ở NVYT sau một ca lao động.
Có sự giảm điểm test trí nhớ ngắn hạn của NVYT sau ca lao động so với trước ca lao động (2,8±0,8 điểm so với 3,9±0,9 điểm), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
4. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi ở các NVYT chuyên ngành sản cho thấy có 29,6 NVYT có điểm stress ở mức thấp; 61,3% NVYT có điểm stress ở mức trung bình và 9,1% NVYT có điểm stress ở mức cao. Nghiên cứu của chúng tôi có mức điểm stress tương đương với nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà [1] ở nhân viên y tế (nói chung): 8,4% có điểm stress ở mức cao; 33% có điểm mức trung bình, 58,6% có điểm mức thấp. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra tỷ lệ NVYT có biểu hiện stress là 70,4%; 43,4% NVYT kiểm soát tốt stress; 53,1% NVYT kiểm soát stress mức trung bình và có 3,5% NVYT không kiểm soát được stress, cần có biện pháp can thiệp. Tỷ lệ NVYT có biểu hiện của stress của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Ngô Thị Kiều My và cộng sự, năm 2014 tại bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng có tỉ lệ điều dưỡng, hộ sinh có biểu hiện căng thẳng từ mức độ nhẹ đến rất nặng là 18,1% [3]. Một số nghiên cứu khác chỉ ra các nhân viên y tế làm các công việc khác nhau có các mức stress cũng khác nhau. Như nghiên cứu của Pozos-Radillo [10] ở các bác sĩ nha khoa có stress mức cao chiếm 67,8%, mức trung bình chiếm 29,9% và mức thấp chiếm 2,3%. Hay nghiên cứu của Lê Thành Tài [4]: tỷ lệ điều dưỡng bị căng thẳng nghề nghiệp tại bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ và bệnh viện Đa khoa Châu Thành – Hậu Giang dao động trong khoảng 45,2% – 53,1%.
Tần số nhịp tim trung bình đầu ca lao động ở các NVYT chuyên ngành sản trong nghiên cứu này là 78,8±7,1 nhịp/phút; cuối ca lao động là 83,8±7,2 nhịp/phút. Như vậy có sự tăng tần số nhịp tim sau ca lao động so với trước ca lao động ở NVYT (p<0,001). Tần số nhịp tim trong ca lao động ở NVYT là 89,9±8,7 nhịp/phút (mức căng thẳng 4/6). Có sự kéo dài thời gian phản xạ của NVYT sau ca lao động so với trước ca lao động (276±16ms so với 194±7,3ms (p<0,001)). Có sự giảm chỉ số tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn của NVYT sau ca lao động so với trước ca lao động (35,2±1,8Hz so với 36,0±1,7Hz) (p<0,001); giảm điểm test trí nhớ ngắn hạn (2,8±0,8 điểm so với 3,9±0,9); chứng tỏ sự mệt mỏi, căng thẳng thần kinh tâm lý ở NVYT sau một ca lao động.
Một ghiên cứu khác về trạng thái chức năng hệ tim mạch ở 340 nhân viên y tế bằng chỉ số toán học nhịp tim cho thấy NVYT có mức căng thẳng cao, khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn thấp (0,037±0,014), chỉ số căng thẳng cao (243). Nghiên cứu chức năng hệ thần kinh trung ương cho thấy thời gian phản xạ thính-thị vận động của NVYT kéo dài ở mức trên trung bình (mức 3/7); tần số nhấp nháy tới hạn của mắt là 37±3,5 (mức 3/7); điểm trí nhớ hình trung bình là 3,5±1 [2]Các NVYT phải thường xuyên trực đêm. Nghiên cứu của Martin DM (2015) [9] chỉ ra mệt mỏi ở y tá liên quan rõ rệt tới thời gian làm việc khi thay đổi từ 8h làm việc và 12h làm việc/ca. Stucky ER (2009) [13] nghiên cứu trên các bác sỹ tập sự ở các khoa điều trị nội trú cho thấy: mối liên quan giữa căng thẳng tại nơi làm việc và chất lượng giấc ngủ kém. Sự cần thiết phải có các chính sách bổ sung, quy định và các cải thiện điều kiện lao động cho NVYT… [12].
5. KẾT LUẬN
– Điều kiện lao động của các nhân viên chuyên ngành sản có nhiều yếu tố đặc thù: Môi trường lao động có nhiều yếu tố bất lợi với sức khỏe, nguy cơ lây nhiễm cao, cường độ làm việc căng thẳng, áp lực công việc lớn, trách nhiệm công việc rất cao, phải trực đêm…
– Tỷ lệ nhân viên y tế có điểm stress ở mức cao là 9,1%; mức trung bình là 61,3% và mức thấp là 29,6%. 70,4% NVYT có biểu hiện stress. 43,4% NVYT kiểm soát tốt stress; 53,1% NVYT kiểm soát stress mức trung bình và có 3,5% NVYT không kiểm soát được stress, cần có biện pháp can thiệp.
– Sau ca lao động có sự tăng tần số nhịp tim (83,8±7,2 nhịp/p so với 78,8±7,1 nhịp/phút) (p<0,001); kéo dài thời gian phản xạ thị vận động (276±16ms so với 194±7,3ms) (p<0,001); giảm tần số nhấp nháy ánh sáng tới hạn (35,2±1,8Hz so với 36,0±1,7Hz) (p<0,001); giảm điểm test trí nhớ ngắn hạn (2,8±0,8 điểm so với 3,9±0,9 điểm) – chứng tỏ sự mệt mỏi, căng thẳng thần kinh tâm lý ở nhân viên y tế có liên quan tới lao động.
6. KHUYẾN NGHỊ
Cần có biện pháp làm giảm gánh nặng lao động ở nhân viên y tế chuyên ngành sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình, Nguyễn Khắc Hải (2005). Điều tra stress nghề nghiệp ở nhân viên y tế. Hội nghị khoa học quốc tế y học lao động và vệ sinh môi trường lần thứ II. Hà Nội, 16-18/11/2005:209-214.
2 Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình, Nguyễn Đức Sơn (2017). “Gánh nặng lao động của nhân viên y tế một bệnh viện tuyến Trung ương”. Tạp chí Y học Việt Nam, tháng 5 số 1 năm 2017, trang 188-192
3 Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh, Đỗ Mai Hoa (2014) “Tình trạng stress của điều dưỡng và hộ sinh Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng”. Tạp chí Y tế công cộng, 34
4 Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2008) “Tình hình stress nghề nghiệp của nhân viên Điều dưỡng”. Tạo chí Y học TPHCM, 12 (4)
5 Agius RM, Blerkin H, Deary IJ, Zealley HE, Wood RA (1996). Survey of perceived stress and work demands of consultant physicians. Occup Environ Med 1996; 53: 217-224
6 Chris. Lloyd, Robert. King, Lesley. Chenoweth (2002) “Social work, stress and burnout: A review”. Journal of Mental Health, 11 (3), 255-265
7 D’Ettorre G, Greco M (2015). Healthcare Work and Organizational Interventions to Prevent Work-related Stress in Brindisi, Italy. Saf Health Work. 2015 Mar;6(1):35-8.
8 Linn LS, Yager J, Cope D, Leake B (1985). Health status job statisfaction, job stress and life satisfaction among academic and clinical faculty. JAMA 1985; 254: 2775-2782.
9 Martin DM (2015), “Nurse Fatigue and Shift Length: A Pilot Study”, Nurs Econ. 2015 Mar-Apr;33(2):81-7.
10 Pozos-Radillo BE1, Preciado-Serrano ML, Acosta-Fernández M et al (2016). Predictive psychophysiological stress symptoms in dentists. Rev Med Inst Mex Seguro Soc. 2016 Mar-Apr;54(2):151-8.
11 Romano M, Festini F, Bronner L (2015). [Cross-sectional study on the determinants of work stress for nurses and intention of leaving the profession]. Prof Inferm. 2015 Oct-Dec;68(4):203-10. doi: 10.7429/pi.2015.684203. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/26752311.
12 Spies LA, Gray J, Opollo J (2015), “HIV and Nurses: A Focus Group on Task Shifting in Uganda”, J Assoc Nurses AIDS Care. 2015 Dec 29. pii: S1055-3290(15)00291-5.
13 Stucky ER, Dresselhaus TR, Dollarhide A et al (2009), “Intern to attending: assessing stress among physicians”, Acad Med. 2009 Feb;84(2):251-7.
Nguyễn Thị Son*, Nguyễn Thu Hà*,
Trần Thanh Hương**
*Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
**Bệnh viện trung ương quân đội 108
(Nguồn tin: Vnniosh.vn)