Tình trạng sức khỏe tâm thần ở công nhân nhà máy sản xuất da giầy tại miền Nam, Việt Nam bằng bộ câu hỏi DASS 21
Ngày nay sức khỏe tâm thần đang trở thành yếu tố nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng tàn tật ở con người và góp phần vào khoảng 40% các nguyên nhân. Tỉ lệ trầm cảm toàn cầu được ước tính khoảng 4,4%, trong đó với trầm cảm ở nữ giới là (5,1%) cao hơn nam giới (3,6%)(1). Từ năm 2005 đến 2015, bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm tăng 18,4% (2). Các vấn đề sức khỏe tâm lý tâm thần đang ngày càng tăng và trở thành gánh nặng bệnh tật tác động đến sự phát triển kinh tế văn hóa xã hội tại Việt Nam. Một nghiên cứu về sức khỏe tâm thần có liên quan đến 10 bệnh tâm thần phổ biến tại Việt Nam được tiến hành năm 2010 đã cho kết luận rằng,14,9% dân số khoảng 14 triệu người Việt Nam phải chịu đựng các vấn đề sức khỏe tâm lý tâm thần như trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt, nghiện rượu, nghiện thuốc kích thích (3).
Ngành công nghiệp da giầy ở Việt Nam còn khá non trẻ so với một số ngành công nghiệp khác, nhưng lại thu hút rất nhiều lao động đặc biệt là lao động nữ ở các thành phố lớn điển hình như thành phố Hồ Chí Minh. Là ngành công nghiệp đã và đang phát triển ngày cành vững mạnh, mang lại nguồn lợi nhuận rất cao về kinh tế, đồng thời cũng góp phần làm gia tăng tỉ lệ bệnh liên quan đến nghề nghiệp.Do ở một số công đoạn sản xuất có sử dụng các nguyên liệu làm phát sinh nhiệt độ cao, hơi khí độc,cùng với điều kiện lao động không thuận lợi đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe người lao động. Thế nhưng cho đến nay, hầu như chưa có nhiều nghiên cứu về gánh nặng sức khỏe tâm lý tâm thần của công nhân ngành công nghiệp da giầy tại Việt Nam.Do vậy, nghiên cứu và đánh giá rối loạn tâm lý tâm thần ở người lao động và các yếu tố nguy cơ tại nơi làm việc, nhất là từ môi trường lao động trong ngành công nghiệp da giầy là rất cần thiết. Điều này cho phép các nhà quản lý sức khỏe có thể xây dựng các các chương trình nâng cao sức khỏe tâm lý tâm thần nhằm bảo vệ dân số có nguy cơ, và cải thiện sức khỏe người lao động tại nơi làm việc.
Bộ câu hỏi DASS 21 là một trong những thử nghiệm để sàng lọc các triệu chứng tâm lý tâm thần trong cộng đồng phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Thái Lan (4, 5). Việt Nam cho đến nay đã ứng dụng rộng rãi bộ DASS 21 để đánh giá sàng lọc stress, trầm cảm, rối loạn lo âu (6). Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu chuẩn hóa bộ DASS 21 bản Việt hóa kết luận rằng, bộ công cụ có độ tin cậy khá cao được thể hiện trong nghiên cứu về tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở nữ giới tại các vùng nông thôn phía Bắc, với Cronbach’s alpha từ 0,70 đến 0,77 thuộc 3 mức độ và 0,88 cho toàn mẫu (7).
Với mục tiêu ước tính tỉ lệ rối loạn tâm lý tâm thần bao gồm trầm cảm, rối loạn lo âu, và stress ở công nhân ngành công nghiệp da giầy tại miền Nam, Việt Nam, trong nghiên cứu này bộ công cụ DASS 21 được sử dụng để sàng lọc chẩn đoán các triệu chứng tâm thần ở người lao động.
2. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: theo phương pháp điều tra mô tả cắt ngang, được tiến hành năm 2019.
Dựa theo một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành tại miền Bắc, Việt Nam năm 2012 với 420 công nhân đang làm việc trong ngành công nghiệp giầy, có 18,8% công nhân có dấu hiệu trầm cảm (8).Do vậy, chọn p = 18,8%, d = 0,05, = 5% →Z21-/2 =1,96 → n = Z2(1 – /2) p(1-p) / d2 = 235. Như vậy, tổng số mẫu tối thiểu cần được nghiên cứu là 235 công nhân.Trên thực tế, đề tài đã chọn toàn bộ 425 công nhân của các phân xưởng thuộc nhà máy giầy tại thành phố Hồ Chí Minh vào mẫu nghiên cứu.
Thu thập thông tin và tính tỉ lệ hiện mắc các triệu chứng tâm lý tâm thần bao gồm stress, trầm cảm và rối loạn lo âu ở công nhân; và các biến số khác như tuối, giới, tình trạng gia đình, học vấn,…
Biến số về sức khỏe tâm lý tâm thần được thu thập bằng phỏng vấn sàng lọc ở công nhân bằng bộ câu hỏi DASS 21 được chuẩn hóa tiếng Việt. DASS 21 đo đạc mức độ về trầm cảm, rối loạn lo âu, và stress trên cộng đồng, là những dấu hiệu xuất hiện trong tuần trước khi được phỏng vấn, gồm 4 mức độ điểm tương ứng từ nhẹ đến nặng với các mức độ rối loạn mà người được hỏi cảm nhận (6). Trầm cảm được ghi nhận về sự tuyệt vọng, mất ý nghĩa cuộc sống, giảm khả năng, và cạn kiệt năng lượng ; rối loạn lo âu được đánh giá qua các hoạt động thể chất, các triệu chứng thực thể có liên quan đến hoạt động tự nhiên của cơ thể về sinh lý học như khó thở, ra mồ hôi tay, … ;và stress cũng được đo kiểm qua các dấu hiệu mãn tính như trãi qua sự căng thẳng, mất khả năng kiểm soát, hoặc bối rối lo sợ.
3. KẾT QUẢ VỀ SỨC KHỎE TÂM LÝ TÂM THẦN Ở CÔNG NHÂN NHÀ MÁY DA GIẦY
3.1. Đặc điểm về dân số nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm nhóm công nhân được chọn vào mẫu nghiên cứu
Đặc điểm |
Tần số (tỉ lệ%) |
|
Tổng số công nhân |
425 |
|
Giới tính |
||
Nữ |
399 (93,9%) |
|
Nam |
26 (6,1%) |
|
Tuổi trung bình (năm) |
32 ± 8,2 |
|
Tình trạng hôn nhân |
||
Độc thân |
208 (44,24%) |
|
Kết hôn |
222 (52,24%) |
|
Li dị |
14 (3,29%) |
|
Góa |
1 (0,24%) |
|
Trình độ học vấn |
||
Mù chữ |
86 (20,23%) |
|
Cấp 1 |
111 (26,12%) |
|
Cấp 2 |
138 (32,47%) |
|
Cấp 3 |
85 (20%) |
|
Cao đẳng |
|
Kết quả nghiên cứu được thực hiện vào năm 2019 trên 425 công nhân có độ tuổi trung bình là 32 ± 8,22 trong khoảng tuổi từ 18 đến 53. Trong đó, có 93,88% công nhân nữ và 6,12% công nhân nam cùng với 57,69% công nhân đã lập gia đình. Ngoài ra, 1,88% công nhân không được đi học, 18,35% học cấp 1, 26,12% học cấp 2, 32,47% học cấp 3, và 21,18% học trung cấp và cao đẳng.
3.2. Tỉ lệ của các triệu chứng rồi loạn tâm lý tâm thần ở công nhân tham gia nghiên cứu
Bảng 2. Tỉ lệ xuất hiện các triệu chứng tâm thần ở công nhân tham gia nghiên cứu
Triệu chứng rối loạn sức khỏe tâm thần |
Tần số |
Tỉ lệ (%) |
Triệu chứng tâm thần chung |
87 |
20,3 |
Trầm cảm |
42 |
9,9 |
Rối loạn lo âu |
76 |
17,9 |
Stress |
31 |
7,3 |
Sau khi phỏng vấn bằng bộ câu hỏi DASS 21, kết quả cho thấy, tỉ lệ công nhân có các triệu chứng về rối loạn tâm lý tâm thần chiếm 20,3%, trong đó công nhân có triệu chứng trầm cảm chiếm 9,9%, có triệu chứng rối loạn lo âu chiếm 17,9%, có triệu chứng stress chiếm 7,3%.
Bảng 3. Tỉ lệ xuất hiện các triệu chứng tâm thần ở công nhân được phân loại theo tuổi, trình độ học vấn, và tình trạng hôn nhân
Tuổi |
|||||||||
Tỉ lệ công nhân |
Tuổi 18 – 40 |
Tuổi trên 40 |
|||||||
Stress (%) |
1,2 |
6,1 |
|||||||
Trầm cảm (%) |
3,3 |
6,6 |
|||||||
Rối loạn lo âu (%) |
3,4 |
14,5 |
|||||||
Trình độ học vấn |
|||||||||
Mù chữ |
Cấp 1 |
Cấp 2 |
Cấp 3 |
Đại học |
|||||
Stress (%) |
1,9 |
4,24 |
0,24 |
0,92 |
0 |
||||
Trầm cảm (%) |
3,1 |
3,3 |
1,6 |
1,9 |
0 |
||||
Rối loạn lo âu (%) |
3,8 |
5,2 |
4 |
4,5 |
0,4 |
||||
Tình trạng hôn nhân |
|||||||||
Độc thân |
Kết hôn |
Ly dị |
Góa |
||||||
Stress (%) |
1,6 |
5,2 |
0,5 |
0 |
|||||
Trầm cảm (%) |
2,9 |
6,3 |
0,7 |
0 |
|||||
Rối loạn lo âu (%) |
8 |
8,9 |
1 |
0 |
Công nhân ở nhóm tuổi trên 40 có tỉ lệ xuất hiện các triệu chứng tâm thần cao hơn nhóm công nhân từ 18-40 tuổi. Những người lao động có trình độ học vấn cấp 1 hay đã kết hôn thì có các triệu chứng tâm thần cao hơn các nhóm khác.
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành vào năm 2019 với công cụ thu thập số liệu là bộ câu hỏi DASS 21 được chuẩn hóa tiếng Việt. Bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 425 công nhân đang làm việc tại nhà máy sản xuất da giầy thuộc khu vực miền Nam, Việt Nam. Thông tin từ (Bảng 1)cho thấy rằng công nhân có độ tuổi trung bình là 32 ± 8,2 trong khoảng tuổi từ 18 đến 53 bao gồm 93,88% công nhân nữ và 6,12% công nhân nam, cùng với 57,69% công nhân đã lập gia đình.
Sau khi phỏng vấn trực tiếp công nhân bằng bộ câu hỏi DASS 21, kết quả thể hiện công nhân có các triệu chứng về sức khỏe tâm lý tâm thần chiếm 20,3% bao gồm công nhân có triệu chứng trầm cảm chiếm 9,9%, và có triệu chứng rối loạn lo âu chiếm 17,9% (Bảng 2). Khi so sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu khác trên thế giới và Việt Nam cũng gợi ý rằng tỉ lệ trầm cảm và rối loạn lo âu ở công nhân cao hơn dân số chung. Điều này có thể do góp phần của yếu tố nguyên nhân liên quan đến nghề nghiệp như tiếp xúc dung môi hữu cơ, nhiệt độ cao, ồn, … làm tăng nguy cơ về rối loạn tâm lý tâm thần hành vi ở công nhân trong đó có các biểu hiện về trầm cảm và rối loạn lo âu (1). Tại Việt Nam, một nghiên cứu quốc gia dựa vào cộng đồng ở nhóm tuổi từ 14 – 25, kết quả cho thấy có đến 32% đối tượng có cảm giác buồn trong cuộc sống, trong số đó 25% đối tượng cảm thấy quá buồn và tuyệt vọng với cuộc sống của mình không muốn hòa nhập với cuộc sống thật với những hoạt động thường ngày (9). Trong nghiên cứu này, nhóm công nhân trên 40 có các triệu chứng tâm thần cao hơn nhóm công nhân có tuổi từ 18-40. Ngoài ra, những người có trình độ học vấn cấp 1 hay nhóm lao động đã kết hôn thì xuất hiện các triệu chứng tâm thần cao hơn các nhóm lao động khác (Bảng 3). Điều này có thể một phần được giải thích bởi số lượng công nhân ở nhóm học cấp 1 hay công nhân đã lập gia đình chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân số nghiên cứu được khảo sát.
Trong lĩnh vực sức khỏe nghề nghiệp, những vấn đề sức khỏe của người lao động có liên quan đến tâm lý tâm thần liên quan đến nghề nghiệp, thường được xem như gánh nặng tinh thần có liên quan đến nghề nghiệp hay còn gọi là gánh nặng nghề nghiệp. Một trong những yếu tố nguyên nhân có liên quan đến gánh nặng nghề nghiệp là môi trường lao động nghèo nàn như nhiệt độ cao, hơi hoá chất độc hại, bụi, ồn, … mà công nhân phải phơi nhiễm. Đối với người lao động những vấn đề sức khỏe tâm thần sẽ làm giảm khả năng lao động nổi bật là trầm cảm, nghiện rượu, rối loạn lo âu là thường gặp nhất (10). Một số nghiên cứu trong lĩnh vực sức khỏe môi trường và nghề nghiệp tại Australia và một số quốc gia vùng Đông Nam Á như Việt Nam cũng chứng minh rằng, việc tiếp xúc với môi trường lao động nóng sẽ gây ra sự giảm sút về năng suất lao động, mất thu nhập, và ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội sinh hoạt thường ngày của người lao động (11, 12). Ở Mỹ, trường đại học Harvard đã nghiên cứu cho thấy có khoảng 6,4% công nhân có dấu hiệu trầm cảm trong dân số lao động (13). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ trầm cảm ở công nhân cao hơn so với nghiên cứu tại Hoa kỳ với tỉ lệ trầm cảm từ 7% đến 9,9%. Trầm cảm ở công nhân sẽ ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống mà còn ảnh hưởng đến năng suất lao động và dễ bị chấn thương trong quá trình lao động. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này thấp hơn kết quả nghiên cứu gần đây ở Hải Phòng, Việt Nam năm 2012 với cỡ mẫu 420 công nhân ngành giầy đã cho thấy, có khoảng 18,8% công nhân có tỉ lệ hiện mắc bệnh trầm cảm và các yếu tố nghi ngờ liên quan đến trầm cảm này bao gồm các yếu tố nguy cơ liên quan đến tổ chức và cường độ lao động (8). Nghiên cứu tại Hải Phòng vẫn chưa báo cáo về mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố nguy cơ từ môi trường lao động. Kết quả nghiên cứu hiện tại cũng thấp hơn rất nhiều so với nghiên cứu tại Trung quốc (14, 15). Các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần tại Trung quốc xuất hiện cả hai khu vực sản xuất với quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ, trong đó ở khu vực sản xuất vừa và nhỏ có tỉ lệ mắc bệnh tâm thần cao hơn. Các vấn đề sức khỏe tâm thần trong cộng đồng người lao động ở 6 tỉnh của Trung Quốc cho thấy tỉ lệ trầm cảm chiếm 50% trong công nhân (14). Báo cáo cũng kết luận rằng, môi trường lao động góp phần không nhỏ là yếu tố nguy cơ gây bệnh trầm cảm như công nhân phải tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ vật lý, hóa học trong môi trường lao động tại nơi làm việc (14, 15).
- Kết luận và kiến nghị
Như vậy tỉ lệ trầm cảm, stress và rối loạn lo âu ở công nhân ngành công nghiệp da giầy trong nghiên cứu này cao hơn ước tính trong dân số chung tại Việt Nam là khoảng 5% (9). Vì đây là ngành công nghiệp có dân số lao động rất đông chiếm khoảng 2,5 triệu công nhân và chủ yếu là lao động nữ, do vậy cần xây dựng các chương trình nâng cao sức khỏe tinh thần tại nơi làm việc, chẩn đoán sớm các triệu chứng tâm lý tâm thần cho công nhân theo định kỳ, nhằm phát hiện và điều trị sớm cho người lao động. Điều này sẽ giúp hạn chế tối đa sự xuất hiện các triệu chứng mãn tính hay nặng hơn các rối loạn tâm thần như stress, trầm cảm, rối loạn lo âu để nâng cao chất lượng sức khỏe cho công nhân, đồng thời nâng cao năng suất lao động và hạn chế tai nạn lao động cho công nhân ngành da giầy nói riêng và các ngành công nghiệp nói chung.
Tài liệu tham khảo
[1]. WHO 2017. Depression and Other Common Mental Disorders – Global Health Estimates. Cited by 20 Nov 2017.
[2]. Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015. Lancet. 2016;388(10053):1545-602.
[3]. Marcus M, Yasamy MT, van Ommeren M, Chisholm D, Saxena S (2015). Depression a global public health concern. WHO Department of Mental Health and Substance Abuse. Geneva, Switzerland: World Federation for Mental Health; 2012, pp. 1418. Available from:www.who.int/mental_health/en/ [cited 11 March 2015].
[4].Rao S, Ramesh N (2015). Depression, anxiety and stress levels in industrial workers: A pilot study in Bangalore, India. Industrial psychiatry journal; 24(1):23-8.
[5].Ratanasiripong P, Kaewboonchoo O, Bell E, Haigh C, Susilowati I, Isahak M, et al (2016). Depression, Anxiety and Stress among Small and Medium Enterprise Workers in Indonesia, Malaysia, Thailand, and Vietnam 2016. 13-29 p.
[6]. Ratanasiripong PK, Orawan & Bell, Edith & Haigh, Charlotte & Susilowati, Indri & Isahak, Marzuki & Harncharoen, Kitiphong & Nguyen, Toai & Low, Wah Yun. (2016). Depression, Anxiety and Stress among Small and Medium Enterprise Workers in Indonesia, Malaysia, Thailand, and Vietnam. International Journal of Occupational Health & Public Health Nursing. 3. 13-29. .
[7]. Tran TD, Tran T, Fisher J. Validation of the depression anxiety stress scales (DASS) 21 as a screening instrument for depression and anxiety in a rural community-based cohort of northern Vietnamese women. BMC psychiatry. 2013;13:24.
[8]. Minh KP (2014). Work-related depression and associated factors in a shoe manufacturing factory in Haiphong City, Vietnam. International journal of occupational medicine and environmental health; 27(6):950-8.
[9]. Vuong DA (2011), Van Ginneken E, Morris J, Ha ST, Busse R. Mental health in Vietnam: Burden of disease and availability of services. Asian journal of psychiatry. ;4(1):65-70.
[10]. Sanderson K, Andrews G (2006). Common mental disorders in the workforce: recent findings from descriptive and social epidemiology. Canadian journal of psychiatry Revue canadienne de psychiatrie. 2006;51(2):63-75.
[11]. McInnes JA, MacFarlane EM, Sim MR, Smith P (2018). The impact of sustained hot weather on risk of acute work-related injury in Melbourne, Australia. International journal of biometeorology. ;62(2):153-63.
[12]. Kjellstrom T, Lemke B, Otto M (2017). Climate conditions, workplace heat and occupational health in South-East Asia in the context of climate change. WHO South-East Asia journal of public health; 6(2):15-21.
[13]. Kessler RC, Akiskal HS, Ames M, Birnbaum H, Greenberg P, Hirschfeld RM, et al (2006). Prevalence and effects of mood disorders on work performance in a nationally representative sample of U.S. workers. The American journal of psychiatry ;163(9):1561-8.
[14]. Zeng Z, Guo Y, Lu L, Han L, Chen W, Ling L (2014). Mental health status and work environment among workers in small- and medium-sized enterprises in Guangdong, China-a cross-sectional survey. BMC public health;14:1162-.
[15]. Ren F, Yu X, Dang W, Niu W, Zhou T, Lin Y, et al (2018). Depressive symptoms in Chinese assembly-line migrant workers: A case study in the shoe-making industry. Asia-Pacific psychiatry : official journal of the Pacific Rim College of Psychiatrists, e12332.
TS. Phan Minh Trang
Phân viện khoa học An toàn vệ sinh lao động và Bảo vệ môi trường miền Nam
(Nguồn tin: Vnniosh.vn)