Xây dựng kỹ thuật xác định sản phẩm chuyển hóa của toluen trong nước tiểu bằng phương pháp sắc ký khí.

Thứ Sáu, 01/12/2023, 09:46(GMT +7)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Toluen còn được gọi là methylbenzen, là một dung môi hữu cơ thơm, một chất lỏng trong suốt, không hòa tan trong nước, nhẹ hơn nước. Nó được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp, thường xuyên như là một dung môi thay thế cho benzen, bởi nó được chuyển hóa khác biệt so với benzen và có độc tính ít hơn benzen. Toluen có công thức hóa học là C6H5-CH3 [7].

Toluen được sử dụng trong các chất keo và chất kết dính, có thể gặp trong sản xuất benzen và được sử dụng trong việc sản xuất các chất tẩy rửa, dược phẩm, thuốc nhuộm, sơn, dệt may, nhựa và nhiều chất khác [8],[10]. Toluen có thể gây các tổn thương khu trú hoặc gây tác hại đến toàn thân. Nó có thể gây kích ứng mắt, đường hô hấp và da. Người lao động tiếp xúc kéo dài hoặc tiếp xúc với toluen dạng lỏng có thể gây ra việc loại bỏ các chất béo tự nhiên của da dẫn đến khô, viêm da nứt. Tiếp xúc mãn tính cũng như phơi nhiễm cấp tính với toluen có thể dẫn đến suy yếu hệ thần kinh trung ương và giảm trí nhớ, một số triệu chứng bao gồm: đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, yếu cơ thể, buồn ngủ, mất thăng bằng cơ thể, dị cảm da, đột quỵ và hôn mê [1],[7].

Toluen nhiễm vào cơ thể, có khoảng 40-80% liều toluen hít vào được hấp thu. Sử dụng rượu bia trong quá trình tiếp xúc toluen làm lượng toluen hấp thu giảm khoảng 10%. Khi tập thể dục, lượng hấp thu toluen qua phổi được tăng lên nhiều. Như vậy, sự tương quan giữa mức toluen trong máu và trong không khí xung quanh sẽ thay đổi tùy theo mức độ gắng sức của người lao động cũng như sự tiếp xúc với da.Toluen khi được hấp thu vào cơ thể, khoảng 20%  được bài tiết qua phổi, phần còn lại được chuyển hóa chủ yếu là acid hippuric (HA), một phần nhỏ của toluen được chuyển hóa thành o-cresol. Như vậy, sự hiện diện của o-cresol trong nước tiểu, một thành phần không thường được tìm thấy trong nước tiểu của con người, có thể được sử dụng như là một xét nghiệm khẳng định tiếp xúc với toluen [7].

Axit Hippuric là chất chuyển hóa chính của toluen và có thể được tìm thấy trong nước tiểu. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng HA là một thành phần có sẵn trong nước tiểu của con người, người chưa nhiễm toluen thường tiết ra khoảng 1 gam HA trên mỗi gam của creatinine. Trong thời gian tiếp xúc với toluen, nồng độ HA niệu sẽ tăng lên. Nhiều nghiên cứu cho thấy ở cuối của một ca làm việc nếu tiếp xúc với toluen ở nồng độ100 ppm, nồng độ HA niệu sẽ có khoảng 2,0-2,5 gam trên mỗi gam của creatinin. Ngoài ra HA ảnh hưởng của chế độ ăn uống và chỉ có mối tương quan với toluen ở nồng độ cao trên 40ppm, nếu ở nồng độ thấp như giới hạn cho phép 20ppm hiện nay thì HA không có mối tương quan.Chính vì vậy, HA đã được loại ra khỏi danh sách chỉ số giám sát sinh học của ACGIH [6],[7].

Hình 1: Sơ đồ chuyển hóa của toluen trong cơ thể người

Ở Việt Nam, theo thông tư 12/2006/TT-BYT cho thấy HA cũng được sử dụng là chỉ số giám sát sinh học cho người lao động có tiếp xúc với toluen[3]. Nhưng từ tháng 7 năm 2016 Theo thông tư 15/2016/TT-BYT thì giám sát sinh học cho người có tiếp xúc với toluen sử dụng o-cresol [4]. Nồng độ cho phép là ≤ 0.3 mg/g creatinine, giới hạn này tương đương với giá trị giới hạn của Mỹ đối với chỉ số o-cresol niệu[6]. Việc thay đổi chỉ số giám sát o-cresol thay cho HA có ý nghĩa rất lớn cho việc bảo vệ người lao động có tiếp xúc với toluen. Tuy nhiên đây là một chỉ số giám sát rất mới tại Việt Nam, kỹ thuật xác định chất này còn hạn chế. Đây là một trong những khó khăn cho các nhà quan lý cũng như các cơ quan có chức năng bảo vệ người lao động. Đặc biệt, khó khăn cho các đơn vị, cá nhân muốn đánh giá mức độ tiếp xúc của người lao động với toluen bằng chỉ số giám sát sinh học. Chính vì vậy việc “nghiên cứu thiết lập quy trình kỹ thuật xác định nồng độ o-cresol trong nước tiểu bằng phương pháp sắc ký khí” đã đượcthực hiện. Nghiên cứu có mục tiêu là: xây dựng được kỹ thuật xác định nồng độ o-cresol trong nước tiểu bằng phương pháp sắc ký khí với độ chính xác trên 90%, giới hạn định lượng nhỏ hơn 0.1mg/L.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

– Xây dựng quy trình phân tích o-cresol niệu-chất chuyển hóa của toluene trong nước tiểu của người lao động có tiếp xúc nghề nghiệp.

2.2.Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu

– Khảo sát trong phòng thí nghiệm: thí nghiệm, xây dựng quy trình

– Lấy mẫu ngoài hiện trường: lấy mẫu nước tiểu của người lao động tại nơi làm việc

2.2.2. Kỹ thuật thực hiện

a. Xây dựng quy trình:

Thử nghiệm ứng dụng phương pháp phân tích sắc với các điều kiện:

– Thiết bị: Máy sắc kí khí Agilent …., Tủ âm sâu 860C,…

             – Dụng cụ: Các dụng cụ chuyên dùng như bình định mức, pipet, cột mao quản DB 624 (60m-0.53mm-3.0um),…

              – Hóa chất: o-cresol, Isoproyl ete, HCl của Sigma.

Phương pháp phân tích được xây dựng theo nghiên cứu của phương pháp 8305 của NIOSH và Maria Jose N [9,11].

b. Xác định sản phẩm chuyển hóa :xác định bằng quy trình xây dựng được trên máy Máy sắc kí khí Agilent

III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. Kết quả xây dựng quy trình

3.1.1.Chuẩn hóa các điều kiện cho phép đo

Để chọn được các điều kiện tối ưu cho xây dựng quy trình, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, đánh giávàthu được kết quả của từng điều kiện như dưới đây.

a. Hóa chất và dung dịch chuẩn

– Hóa chất: o-cresol, Isoproyl ete, HCl của Sigma

– Dung dịch chuẩn: pha o-Cresol trong nước deion để được các nồng độ từ 0.1-10mg/L.

b. Các thông số cài đặt trên máy GC

            Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát đối với từng thông số và thu được được các giá trị tối ưu. Tại các giá trị này kết quả của phép đo là tốt nhất. Giá trị của các thông số tối ưu cụ thể như sau:

  • Nhiệt độ inlet: 250oC
  • Nhiệt độ detector: 250oC
  • Nhiệt độ oven: 120oC ( giữ 1 phút), tốc độ tăng nhiệt 15oC/phút khi đạt 220oC (giữ 1 phút).
  • Chế độ chia dòng = 5:1
  • Tổng tốc độ dòng: 1ml/phút
  • Thể tích bơm mẫu: 1µl

3.1.2. Chọn các điều kiện lấy mẫu, xử lý mẫu để có dung dịch đo

a. Lấy mẫu

Mẫu nước tiểu được thu vào cuối ca của ngày làm việc cuối tuần. Thu từ 5 -10ml nước tiểu đựng vào ống thủy tinh có thể tích 15-20ml, loại ống chịu được điều kiện âm sâu (-800C). Bảo quản lạnh tại hiện trường, khi đưa về phòng thí nghiêm được bảo quản âm sâu trước khi phân tích.

b. Xử lý mẫu

Mẫu được xử lý với nhiều điều kiện khác nhau và nhóm nghiêm cứu thu được điều kiện cho kết quả tốt nhất là quy trình xử lý mẫu như dưới đây:

Bước 1: Hút chính xác 1ml nước tiểu vào ống thủy tinh chịu nhi

Bước 2: Thêm 4ml nước cất

Bước 3: Thêm 1ml clohidric acid

Bước 4: Đem thủy phân trong bể điều nhiệt với nhiệt độ 100oC trong thời gian 30 phút

Bước 5: Làm lạnh về nhiệt độ phòng

Bước 6: Thêm 1ml isopropyl ete

Bước 7: Lắc  đều

Bước 8: Đem ly tâm ở tốc độ 3000 vòng trong 8 phút

Bước 9: Thu lấy lớp dung dịch trên phân tích trên máy GC

Dung dịch chuẩn để xây dựng đường chuẩn được xử lý như mẫu phân tích ở các mức nồng độ: 0.1mg/l; 0.5mg/l; 1mg/l; 2.5mg/l; 5mg/l;7.5mg/l; 10mg/l.

3.1.3. Đánh giá các điều kiện của quy trình

a. Khảo sát khoảng tuyến tính và xây dựng đường chuẩn

Khảo sát khoảng tuyến tính

Khoảng nồng độ chất phân tích từ giới hạn định lượng đến giới hạn tuyến tính gọi là khoảng tuyến tính (dynamic range). Khoảng tuyến tính của mỗi nguyên tố phân tích ở mỗi vạch phổ khác nhau là khác nhau. Vạch phổ nào có độ hấp thụ càng nhạy thì khoảng tuyến tính càng hẹp[2].

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát khoảng tuyến tính của o-cresol bằng cách: pha một dãy chuẩn của o-cresol trong nước deion là : 0.1 ; 0.5 ; 1 ;  3 ; 5 ; 7 ; 9 ; 11 ; 13 ; 15mg/l – (µg/mL).

Căn cứ vào kết quả thu được nhóm nghiên cứu nhận thấy khoảng tuyến tính phương pháp phân tích  o-cresol trong nước tiểu là từ LOQ-9µg/mL. Vì vậy khi phân tích mẫu nếu hàm lượng nguyên tố cần phân tích nằm ngoài khoảng tuyến thì phải làm giàu mẫu hoặc pha loãng mẫu để phân tích mới đảm bảo được độ chính xác của phép đo.

Xây dựng đường chuẩn

– Đường chuẩn

Từ kết quả khảo sát khoảng tuyến tính nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm minitab 17.0 để xây dựng đường chuẩn. Phương trình đường chuẩn của o-Cresol trong nước tiểu được chỉ ra ở dưới đây:

Hình 2: Đường chuẩn của quy trình phân tích O-Cresol trong nước tiểu

– Đánh giá phương trình hồi quy của đường chuẩn

Theo kết quả thu được từ phần mềm minitab 17.0 phương trình hồi quy đầy đủ của đường chuẩn cho phân tích o-Cresol trong nước tiểu có dạng: y = (-0.6± 3.186) + (16.41± 0.267) x

Trong phương trình y = a + bx, trường hợp lý tưởng xảy ra khi a = 0 (khi không có chất phân tích thì không có tín hiệu). Tuy nhiên, trong thực tế các số liệu phân tích thường mắc sai số ngẫu nhiên luôn làm cho a ≠ 0.Nếu giá trị a ≠ 0 có nghĩa thống kê thì phương pháp phân tích sẽ mắc sai số hệ thống.Vì vậy trước khi sử dụng đường chuẩn cho phân tích cần kiểm tra sự khác nhau giữa giá trị a và giá trị 0.

Kiểm tra a với giá trị 0 theo tiêu chuẩn thống kê Fisher (chuẩn F) [2,5].

Nếu Ftính< Fchuẩn (F(0.95; 4; 5))  thì sự sai khác giữa giá trị a và 0 không có ý nghĩa thống kê và ngược lại. Kết quả đánh giá cho thấy Ftính = S’2/S2= 4.21 ;  Fchuẩn = F(0.95; 3;4) = 6.59  Tức là Ftính< Fchuẩn ở phương trình đường chuẩn phân tích o-cresol trong nước tiểu. Có nghĩa là sự sai khác giữa giá trị a và 0 không có ý nghĩa thống kê.Vì vậy phương pháp phân tích trên không mắc sai số hệ thống.

b. Giới hạn phát hiện (LOD), giới hạn định lượng (LOQ)

Đối với sắc ký khí thì việc xác định giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) dựa theotỷ số tín hiệu/nhiễu đường nên là khá phổ biến[2]. Nhóm nghiên cứu sử dụng cách này để tính LOD, LOQ bằng cách thêm một lượng chất chuẩn nhỏ dần vào mẫu trắng và tại nồng độ 0.01µg/mL thu được tín hiệu cao gấp 3 lần so với tín hiệu đường nền.Như vậy theo phương pháp tính LOD dựa trên tỷ số tín hiệu/nhiễu nhóm nghiên cứu thu được LOD=0.01µg/mL, LOQ=0.03µg/mL

Căn cứ vào kết quả thu được nhóm nghiên cứu nhận thấy trong quy trình phân tích o-cresol trong mẫu nước có giới hạn phát hiện 0.01µg/mL,  giới hạn định lượng là 0.03µg/mL. Vậy khoảng tuyến tính của o-cresol trong quy trình phân tích o-cresol niệu là (LOQNước tiểu– 9)µg/mL tương đương (0.03-9)µg/mL.

c. Đánh giá độ chính xác của phương pháp

Theo quan điểm của tiêu chuẩn quốc tế (ISO – 5725 1 – 6:1994) và tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN 6910 1- 6:2005) độ chính xác của phương pháp được đánh giá qua độ chụm và độ đúng [5].

  • Độ chụm chỉ mức độ giao động của các kết quả thử nghiệm độc lập quanh giá trị trung bình. 
  • Độ đúng chỉ mức độ gần nhau giữa giá trị trung bình của kết quả thử nghiệm và giá trị thực hoặc giá trị được chấp nhận là đúng.

Kiểm tra độ chụm

Trong khuôn khổ đề tài nhóm nghiên cứu kiểm tra độ chụm bằng cách dùng mẫu thử thêm chuẩn – pha ba loại mẫu có nồng độ thêm chuẩn bằng giá trị gần điểm đầu, điểm giữa, điểm gần cuối của khoảng tuyến tính (tương đương với các mức nồng độ thấp, trung bình, cao). Mỗi mức nồng độ lặp lại 10 lần. Trên cơ sở kết quả các mẫu lặp lại nhóm nghiên cứu đánh giá độ thu hồi theo công thức sau:

Trong đó:

R%: Độ thu hồi

Cm+c: Nồng độ chất phân tích trong mẫu thêm chuẩn

Cm: Nồng độ chất phân tích trong mẫu thử

Cc: Nồng độ chuẩn thêm (lý thuyết)

Sau đó tính độ thu hồi chung là trung bình của độ thu hồi các lần lặp lại.

Bảng 1: Kết quả khảo sát độ lặp lại và độ thu hồi của mẫu nước tiểu

Với kết quả thu được ở bảng 1 cho thấy CV% = 3.98% lớn nhất ở mức nồng độ nhỏ nhất năm trong khoảng cho phép của AOAC, từ 0.1 -1 µg/mL CV% cho phép là 11- 15% [5]. Nên những sai số ở trên cả điểm đầu, điểm cuối hay điểm giữa của khoảng tuyến tính đều là những sai số nhỏ và chấp nhận được.Điều đó chứng tỏ độ chụm của phương pháp đạt yêu cầu.

Kiểm tra độ đúng

Có nhiều cách để đánh giá độ đúng của phương pháp.Nhóm nghiên cứu đã chọn cách mà hiện nay được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới là dùng vật liệu chuẩn (còn gọi là mẫu chuẩn).Mẫu chuẩn là mẫu phân tích có hàm lượng đã được xác định trước và đúng.Có nhiều cấp vật liệu chuẩn khác nhau, trong đó cao nhất là CRM (certified reference materials – mẫu chuẩn được chứng nhận) được cung cấp bởi các tổ chức có uy tín trên thế giới (RECIPE – của Đức). Kết quả phân tích mẫu CRM thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2: Kết quả phân tích O-Cresol trong mẫu CRM

(Lặp lại 3 lần)

Từ bảng 2 ở trên nhóm nghiên cứu nhận thấy kết quả phân tích mẫu CRM cho các giá trị nằm trong khoảng giá trị đã cho và sát với giá trị trung bình của mẫu CRM. Ở mức nồng độ thấp của mẫu nước tiểu giá trị thu được là 0.274µg/mL xấp xỉ giá trị trung bình của mẫu CRM (0.251µg/mL) và thuộc khoảng giá trị đã cho là (0.176-0.326) µg/L. Tương tự, ở mức nồng độ cao giá trị thu được 2.79µg/L,nằm trong khoảng cho phép (2.07-2.45)µg/L và gần với giá trịnh trung bình 2.76 µg/L. Điều đó chứng tỏ phương pháp phân tích đảm bảo độ đúng.

d. Đánh giá độ ổn định của phương pháp

            Độ ổn định của phương pháp là khả năng cung cấp các kết quả có độ chính xác chấp nhận được dưới những điều kiện có sự thay đổi về một số điều kiện thực hiện phương pháp như: giữa người A người B, giữa máy A với máy B, giữa điều kiện A với điều kiện B. Đánh giá độ ổn định của phương pháp có thể sử dụng mẫu CRM, khi không có mẫu CRM thì có thể sử dụng (chuẩn F) hoặc (chuẩn t) để đánh giá hai nhóm kết quả trong 2 điều kiện [5]. 

            Trong nghiên cứu này để kiểm tra độ ổn định của phương pháp nhóm nghiên cứu tiến hành với mẫu CRM khi thay đổi điều kiện về thời gian phân tích kết quả thu được như sau:

Bảng 3: Thay đổi về điều kiện thời gian đánh giá độ ổn định của quy trình phân tích O-Cresol trong nước tiểu

            Với điều kiện thay đổi về thời gian, độ ổn định của phương pháp vẫn đảm bảo.Kết quả đánh giá được thể hiện ở bảng 3. Qua 3 tuần khác nhau kết quả mẫu CRM thu được nằm trong khoảng giới hạn cho phép và ở các mức nồng độ giá trị thu được luôn gần với giá trị trung bình cho trước của mẫu CRM.

Như vậy, qua việc đánh giá những tiêu chí cần thiết cho một quy trình phân tích, nhóm nghiên cứu nhận thấy quy trình phân tích o-Cresol trong nước tiểu bằng phương pháp sắc ký khí là đạt yêu cầu của một quy trình phân tích.

Từ quy trình trên nhóm nghiên cứu có một số nhận xét như sau:

Quy trình có khoảng tuyến tính, giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của nhóm nghiên cứu thu được tương đương, thậm chí còn thấp hơn một số quy trình phân tích của một số tác giả khác. Cụ thể phương pháp8305 của NIOSH cókhoảng tuyến tính từ 2-5µg/mL [9], khoảng tuyến tính của nhóm nghiên cứu rộng hơn là từ 0.03-9µg/mL. LOD/LOQ của nhóm nghiên cứu thu đượclà0.01/0.03µg/ml. Giới hạn này tương đương với giới hạn trong phương pháp phân tích của Maria José (2007) [11], Monica Dolci(2008)[12],thấp hơn LOD của phương pháp 8305 là 0.5µg/mL[9] và thấp hơn LOQ (0.8 µg/mL) của Cheol-Woo Lee (2009) khi phân tích trên HPLC [8].

Quy trình có độ chính  xác, độ thu hồi nằm trong giới hạn cho phép của AOAC và tốt hơn của phương pháp của NIOSH 8305 và tương đương với các quy trình nghiên cứu trước đó (Maria José N. de Paiva)[9] cùng trên thiết bị GC.

Quy trình này có thể ứng dựng trên các máy thế hệ tương đương hoặc thế hệ tiếp theo của hãng. Đối với những hãng khác chỉ cần là những máy có điều kiện và tính năng kỹ thuật tương tự (ứng dụng) nếu hiện đại hơn thì càng tốt đều có thể dùng được.

3.2. Kết quả xác định chất chuyển hóa

            Để ứng dụng quy trình phân tích xác định chất chuyển hóa o-cresol của toluen trong nước tiểu, nhóm nghiên cứu lấy 220 mẫu nước tiểu của công nhân tiếp xúc với dung môi hữu ở ngành da giày, sản xuất sơn kết quả thu được như sau:

Bảng 4: Kết quả phân tích O-Cresol trong nước tiểu

Kết quả bảng 4 cho thấy: Trong 220 đối tượng tiếp xúc được lấy nước tiểu xét nghiệm nồng độ O-cresol thì có 72 đối tượng (32.73%) vượt tiêu chuẩn cho phép (> 0.3mg/gceatinin). Từ kết quả này nhóm nghiên cứu nhận thấy, để bảo vệ người lao động có tiếp xúc với toulen, cần sử dụng chỉ số giám sát sinh học là O-cresol để xét nghiệm định kỳ, trên cơ sở đó có biện pháp bảo vệ kịp thời, có hiệu quả nhất đối với những người có nồng độO-cresol vượt tiêu chuẩn cho phép.

Sau khi sử dụng quy trình xây dựng được để phân tích mẫu thực, nhóm nghiên cứu nhận thấy quy trình ổn định, đảm bảo kết quả chính xác. Chính vì vậy quy trình dự thảo ban đầu không cần thay đổi gì sau khi nhóm nghiên cứu áp dụng thực tế.

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1. Kết luận

Qua một thời gian nghiên cứu nhóm thực hiện đã đạt được kết quả cụ thể  thể như sau:

  •  Khoảng tuyến tính: (0.03 -9) µg/mL.
  •  Giới hạn phát hiện: 0.01 µg/mL
  •  Giới hạn định lượng: 0.03 µg/mL
  •  Quy trình đảm bảo tính ổn định, độ chính xác trên 92%.

Đánh giá: LOD, LOQ tương đương và thấp hơn một số tác giả khác đã nghiên cứu, tiết kiệm hóa chất, thời gian phân tích

* Áp dụng quy trình xây dựng được: phân tích 220 mẫu nước tiểu của 220đối tượng tiếp xúcvới toluen cho thấy có 32.73% đối tượng có nồng độO-cresolniệu vượt quá giới hạn cho phép.

4.2. Kiến nghị

Áp dụng rộng rãi kỹ thuật xác định O-cresol trong nước tiểu để làm công cụ giám sát sinh học cho người lao động có tiếp xúc vơi toluen.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hoàng Minh Hiền(2003), Thực trạng sức nghe của công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ ở một số cơ sở sản xuất.  Báo cáo Hội nghị Y học lao động toàn quốc.
  2. Tạ Thị Thảo (2010), Thống kê trong hóa phân tích, Giáo trình môn học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc Gia Hà Nôi.
  3. Thông tư số 12/2006/TT- BYT ngày 10/11/2006 quy định về hướng dẫn khám bệnh nghề nghiệp.
  4. Thông tư 15/2016/TT-BYT ngày 1/7/2016 quy định về bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội.
  5. Viện kiểm nghiện an toàn vệ sinh Thực phẩm Quốc Gia, Thẩm định phương pháp trong phân tích hóa học và vi sinh vật học, NXB Khoa học và Kỹ Thuật.
  6. American Conference of Industrial Hygienists -ACGIH (2016) “Threshold Limit Value for Chemical Substances and Physical Agents and Biological Exposure Indices” Signature Publication, ISBN:978-1-607260-85-1 @2016 (Pages: 118).
  7. American Conference of Industrial Hygienists-ACGIH (2010), toluen biological exposure index.
  8. Cheol-Woo Lee, et al. (2009) “Rapid HPLC Method for the Simultaneous Determination of Eight Urinary Metabolites of Toluen, Xylene and Styrene” Bull. Korean Chem. Soc. 2009, Vol. 30, No. 9 (2021- 2026).
  9. http://www.cdc.gov/niosh/docs/2003-154/pdfs/8305.pdf
  10. G. Truchon (1996) Gas Chromatographic Determination of Urinary o-Cresol for the Monitoring of ToluenExposure ,Journal of Analytical Toxicology, Vo]. 20, September 1996.(4.3.9.2017)
  11. Maria José N. de Paiva, (2007) Analysis of ortho-Cresol in Urine by Solid Phase Microextraction-Capillary Gas Chromatography, J. Braz. Chem. Soc., Vol. 18, No. 5, 1034-1039, 2007 (4.4.9.2017)
  12. Monica Dolci, Thermo Fisher Scientific,(2008) , Determination of Cresols in Urine Samples(4.2.9.2017)

Nguyễn Thị Hiền

Viện Nghiên cứu KHKT Bảo hộ lao động


(Nguồn tin: Nilp.vn)